Thứ sáu, 29/03/2024 11:40 (GMT+7)

88,5% dân số nông thôn nước ta được sử dụng nước hợp vệ sinh

Khánh Dung -  Thứ hai, 12/09/2022 16:52 (GMT+7)

Theo dõi MTĐT trên

Theo Tổng hội NN&PTNT Việt Nam, đến nay, 88,5% dân số nông thôn nước ta được sử dụng nước hợp vệ sinh, trong đó, 51% dân số nông thôn (khoảng 33 triệu người) sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn QCVN 02:2009/BYT của Bộ Y tế.

Chiến lược quốc gia cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1978/QĐ-TTg.

Theo đó, mục tiêu tổng thế của Chiến lược nhằm bảo đảm người dân nông thôn được quyền tiếp cận, sử dụng dịch vụ cấp nước sạch công bằng, thuận lợi, an toàn với chi phí hợp lý; bảo đảm vệ sinh hộ gia đình và khu vực công cộng, vệ sinh môi trường, phòng, chống dịch bệnh; bảo vệ sức khỏe, giảm các bệnh liên quan đến nước và vệ sinh, nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm an sinh xã hội cho người dân nông thôn, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn với thành thị, góp phần xây dựng nông thôn mới.

Cụ thể, phấn đấu đến năm 2030, 65% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch đạt chất lượng theo quy chuẩn với số lượng tối thiểu 60 lít/người/ngày; 100% hộ gia đình nông thôn, trường học, trạm y tế có nhà tiêu hợp vệ sinh bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn; 100% người dân nông thôn thường xuyên thực hiện vệ sinh cá nhân; 25% điểm dân cư nông thôn tập trung có hệ thống thu gom nước thải sinh hoạt, 15% nước thải sinh hoạt được xử lý; 75% hộ chăn nuôi, trang trại được xử lý chất thải chăn nuôi.

Chiến lược cũng đặt mục tiêu đến năm 2045, 100% người dân nông thôn được sử dụng nước sạch và vệ sinh an toàn, bền vững; 50% điểm dân cư nông thôn tập trung có hệ thống thu gom nước thải sinh hoạt, 30% nước thải sinh hoạt được xử lý; 100% hộ chăn nuôi, trang trại được xử lý chất thải chăn nuôi.

tm-img-alt

Theo Tổng hội NN&PTNT Việt Nam, đến nay, 88,5% dân số nông thôn nước ta được sử dụng nước hợp vệ sinh, trong đó, 51% dân số nông thôn (khoảng 33 triệu người) sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn QCVN 02:2009/BYT của Bộ Y tế.

Kết quả trên ghi nhận việc đầu tư nước sạch nông thôn đã có những bước phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ. Kể từ khi phát động Chương trình xây dựng nông thôn mới, cả nước đã có 16.500 chương trình cấp nước xây dựng chung với hơn 80% công trình được xây dựng trong giai đoạn 2010 - 2020. Công tác xã hội hóa ngành cấp nước, nhất là tại khu vực đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long đã mang lại những thành quả lớn.

Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều chuyên gia, kết quả nêu trên chưa thực sự bền vững. 1/3 số công trình cấp nước xây dựng trong giai đoạn 2010 - 2020 chưa phát huy tác dụng, gây ra lãng phí tài nguyên quốc gia. Cả nước vẫn còn hơn 31 triệu người dân nông thôn chưa được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn. Những người dân này phải chấp nhận sống chung với nguồn nước ngầm, nước mưa, nước không được xử lý an toàn.

Trong khi đó, nguồn nước ở nông thôn đang bị ô nhiễm rất nghiêm trọng từ nguồn nước thải của các nhà máy, làng nghề ở lưu vực các con sông và hoạt động sản xuất nông nghiệp...

Tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng khan hiếm, khó khăn về nguồn nước, tỷ lệ người dân sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn thấp hơn nhiều so với mức trung bình của cả nước. Cụ thể, vùng miền núi phía Bắc chỉ đạt 31%, vùng Tây Nguyên đạt 26,6% so với mức trung bình 51% của cả nước.

Việc thiếu khả năng tiếp cận với nước sạch và vệ sinh cùng với các thực hành vệ sinh kém góp phần làm tăng cao tỷ lệ tiêu chảy, viêm phổi và nhiễm ký sinh trùng. Kết quả là 1/4 trẻ em dưới 5 tuổi tại Việt Nam bị suy dinh dưỡng thể thấp còi. Bên cạnh việc bị ảnh hưởng về sức khỏe, các em còn dễ bị bệnh và nhiễm trùng hơn, ít có khả năng phát triển chiều cao đầy đủ hoặc khó phát triển đầy đủ năng suất lao động khi trưởng thành.

Chính vì vậy, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã xếp Việt Nam vào số những nước có tình trạng an ninh nguồn nước đáng báo động, nhất là ở khu vực nông thôn.

Bộ NN&PTNT giải thích về việc trên, rằng có 3 nguyên nhân chính gồm hạn chế về mặt tuyên truyền, chính sách chưa thích ứng và quản lý vận hành chưa phù hợp. Từ năm 2016, nguồn vốn cho nước sạch đã được lồng ghép trong Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển nông thôn mới (giai đoạn 2016-2020) và Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững (giai đoạn 2016-2020). Tuy nhiên, chưa có tiêu chí và mục tiêu cụ thể để phân bổ ngân sách cho nước sạch trong các chương trình này.

tm-img-alt
Ảnh MTĐT

“Không để ai bị bỏ lại phía sau” trong mục tiêu về nước sạch, Bộ NN&PTNT đang xây dựng “Đề án cấp nước sạch nông thôn giai đoạn 2021 - 2025”. Theo đó, mục tiêu đến năm 2025 có 60% dân số nông thôn được tiếp cận bền vững với nước sạch đạt quy chuẩn với số lượng tối thiểu 60 lít/người/ngày; nâng tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sạch từ công trình cấp nước tập trung lên 51%. Chính phủ sẽ dành 1.300 tỷ đồng để đầu tư các công trình cung cấp nước sạch, ưu tiên cho những khu vực còn nhiều khó khăn.

Nhiều chuyên gia kiến nghị, Bộ NN&PTNT cần đặc biệt chú ý công tác quản lý nguồn nước, có biện pháp hữu hiệu để giải quyết cơ bản tình trạng ô nhiễm môi trường. Đồng thời phải quy định rõ vai trò của cơ quan thẩm định chất lượng nước, sớm thống nhất tiêu chuẩn nước sạch hướng đến đạt chất lượng như các nước tiên tiến trên thế giới.

Để người dân nông thôn có nguồn nước sạch chất lượng, công tác tuyên truyền cần đa dạng hơn nữa để tiếp cận nhiều đối tượng nhằm nâng cao ý thức sử dụng nước sạch và vệ sinh của người dân, nhất là người dân vùng sâu, vùng xa. Đồng thời triển khai, nhân rộng phong trào cộng đồng không phóng uế bừa bãi, hướng tới thay đổi nhận thức, hành vi vệ sinh của người dân; quy định “tỷ lệ hộ gia đình nông thôn, trường học, trạm y tế có nhà tiêu hợp vệ sinh được xây dựng và quản lý sử dụng bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn”; ứng dụng và phổ biến các giải pháp công nghệ xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh đơn giản, phù hợp tập quán địa phương và khả năng chi trả của người dân; hỗ trợ kỹ thuật xây dựng, quản lý sử dụng công trình vệ sinh hộ gia đình, vệ sinh công cộng bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn...

tm-img-alt
Ảnh MTĐT

Thí điểm áp dụng các mô hình công nghệ thu gom và xử lý nước thải chi phí thấp, hạn chế hóa chất, sử dụng năng lượng tái tạo, ít phát sinh chất thải thứ cấp phù hợp với đặc điểm và quy mô khu dân cư nông thôn tập trung; quản lý chất thải chăn nuôi bảo đảm đúng yêu cầu quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, bảo đảm mùi, khí thải, nước thải, chất thải rắn phát sinh từ cơ sở chăn nuôi không làm ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, không gây ô nhiễm môi trường; hộ chăn nuôi, chủ trang trại chăn nuôi chịu trách nhiệm xử lý chất thải chăn nuôi bảo đảm đúng quy định; nghiên cứu, ứng dụng công nghệ, giải pháp cấp nước và vệ sinh thân thiện với môi trường, không ảnh hưởng sức khỏe người dân, ưu tiên công nghệ đơn giản, giá thành phù hợp với khả năng chi trả của người dân; tăng cường chia sẻ thông tin, trao đổi kinh nghiệm, ứng dụng và chuyển giao công nghệ tiên tiến với các quốc gia, tổ chức quốc tế, các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực nước sạch và vệ sinh, tranh thủ sự hỗ trợ nguồn lực, khoa học, công nghệ, trang thiết bị của các quốc gia, tổ chức quốc tế trong cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn,…

Bạn đang đọc bài viết 88,5% dân số nông thôn nước ta được sử dụng nước hợp vệ sinh. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0912 345 014 Hoặc email: [email protected]

Cùng chuyên mục

Bài thơ: Khúc giao mùa tháng Ba
Mộc miên thắp lửa đỏ trời///Lúa chiêm trong nắng xanh ngời chân mây///Giấc mơ lả cánh cò bay///Cố hương ơi! Những mê say cuối chiều.
Bài thơ: Khúc giao mùa
Mùa như gọi nỗi niềm về gõ cửa///Bất chợt thương, bất chợt nhớ một thời///Khi hoa Xuân dịu sắc trắng chơi vơi///Quyện hương bưởi, hương chanh bay lặng lẽ.
Bài thơ: Gái quê...
Không còn chân lấm tay bùn///Gái quê giờ cũng "ai phôn" cả rồi///Tự phong "Hoa hậu", "Hoa khôi"///Quần đen, nón lá... em tôi chẳng cần

Tin mới

Bài thơ: Khúc giao mùa tháng Ba
Mộc miên thắp lửa đỏ trời///Lúa chiêm trong nắng xanh ngời chân mây///Giấc mơ lả cánh cò bay///Cố hương ơi! Những mê say cuối chiều.