Thứ năm, 25/04/2024 02:23 (GMT+7)

Chính sách chiêu hiền đãi sĩ

PGS.TS Nguyễn Đức Khiển -  Thứ hai, 22/03/2021 09:13 (GMT+7)

Theo dõi MTĐT trên

Các triều đại vua chúa nối tiếp nhau đều luôn đề cao vai trò của trí thức thông qua các chính sách thu phục hiền tài đóng góp cho sự hung thịnh của quốc gia, dân tộc…

Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng ghi rõ:

Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu tiên phát triển nguồn nhân lực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học -  công nghệ, đổi mới sang tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. [1]

Quan điểm trọng dụng nhân tài đã có từ thời xa xưa, với nhiều hình thức “chiêu hiền, đãi sĩ”. Năm 1499, vua Lê Hiền Tông đã ban hành một đạo sắc về chấn hưng đất nước, trong đó nhấn mạnh: “Nhân tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí mạnh thì đạo mới mạnh, khoa mục là đường thắng của quan trường, đường thắng mở thì  chân nho mới có”. Vua Quang Trung - Nguyễn Huệ cũng đã từng xác định: “Dựng nước lấy việc học làm đầu. Muốn thịnh trị lấy nhân tài làm gốc”. Theo đó, các triều đại vua chúa nối tiếp nhau đều luôn đề cao vai trò của  trí thức thông qua các chính sách thu phục hiền tài đóng góp cho sự hung thịnh của quốc gia, dân tộc…

Kể từ khi Việt Nam  giành được độc lập, vai trò của trí thức càng được đề cao và xem trọng. Hàng loạt chính sách “trải thảm đỏ” từ Trung ương đến địa phương được đưa ra nhằm thu hút chất xám của người Việt từ khắp nơi trên thế giới trở về quê hương đóng góp cho đất nước. Nhờ vậy, nhiều thế hệ trí thức, học gia đang sinh sống và làm việc ở các quốc phát triển trên khắp thế giới đã quyết định về Việt Nam làm việc. [3]

Bác Hồ nói: “Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là vấn đề hàng đầu, là nền tảng quyết định thành bại của cách mạng. Muôn việc thành công, hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Người khẳng định “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” và Bác xem: “Việc chăm sóc, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ của Đảng phải tỉ mỉ, công phu như người làm vườn, vun trồng những cây quý thì mới có được những cán bộ tốt”. Không chỉ có nói, Người còn là tấm gương mẫu mực về trọng dụng nhân tài.

Mọi người đều biết, ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, dù có nhiều ý kiến khác nhau, Bác vẫn sẵn sàng sử dụng lại cán bộ, công chức, quan chức trong chính quyền cũ.

Cụ Huỳnh Thúc Kháng - một trí thức Hán học, từng là Viện trưởng Viện dân biểu Trung Kỳ thời thuộc Pháp, nổi tiếng tài năng, đức độ và lòng yêu nước. Người đã tìm cách mời cụ ra làm Bộ trưởng Nội vụ. Năm 1946, Người đi Pháp, Người đã mạnh dạn giao cho cụ Huỳnh Thúc Kháng làm quyền Chủ tịch nước trong lúc chính phủ còn có rất nhiều các đồng chí cấp cao của Đảng.  Hay như cụ Bùi Bằng Đoàn làm đến chức Thượng thư bộ hình dưới triều Nguyễn, nhưng Bác vẫn mời làm trưởng ban Thanh tra đặc biệt của chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và sau đó làm đến chức Trưởng ban thường trực Quốc hội Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hay giáo sư Nguyễn  Văn Huyên tuy là người ngoài Đảng vẫn được Người trọng dụng giữ chức Bộ trưởng Giáo dục đến 29 năm.

Mới 34 tuổi, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ và 37 tuổi làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và là đại tướng tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam. Khi tín nhiệm, giao việc cho ai Người còn căn dặn rất kỹ càng, ví dụ như khi giao việc cho ông Lê Giảng vào chức vụ cấp cao của Bộ Tư pháp. Người căn dặn: “Chú làm nghề này (tòa án) phải thiết diện vô tư. Nếu chú không thiết diện vô tư được, Bác sẽ thiết diện vô tư với chú”.

Bác Hồ có biệt tài sử dụng nhân tài đến mức nghệ thuật. Bác nói: “Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều, nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo sử dụng thì nhân tài ngày càng phát triển”.

Người giải thích việc này rất dễ hiểu: “Người nào có năng lực việc gì thì đặt vào việc ấy. Nếu dùng không đúng, người giỏi nghề thợ mộc thì giao làm thợ rèn, người giỏi nghề thợ rèn thì lại giao làm thợ mộc như thế thì hai người đều thất bại cả hai”. Chọn được người đứng đầu tốt thì cả hệ thống tốt. Người đứng đầu tốt sẽ chọn người cấp phó tốt và ngược lại, người đứng đầu không tốt thì khó mà chọn được cấp phó tốt”, ông Phạm Minh Chính, trưởng ban Tổ chức Trung ương nhấn mạnh tại Hội nghị tham gia ý kiến vào dự thảo: “Đề án tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nghiệp vụ”.[2]

Dù mỗi cá nhân đều có cách thể hiện tình yêu với quê hương đất nước theo cách riêng của mình nhưng hiện có thêm nhiều trí thức Việt trở về nước với tâm thế cống hiến mà không quá nặng về danh lợi quả là tín hiệu lạc quan cho chính sách thu hút nhân tài của đất nước ta. Với nhiều trí thức trẻ, khái niệm “trở về” là một điều mặc định đã được “cài đặt” trong sâu thẳm con người họ. Như trường hợp của thạc sĩ Bùi Hải Đăng, hiện đang làm việc cho Tập đoàn Sun Group. Bùi Hải Đăng mới 28 tuổi, thật trẻ trung và cũng giống như Nguyễn Văn Thuận, Đăng đi tu nghiệp ở nước ngoài là “để trở về”. Bùi Hải Đăng tốt nghiệp thạc sĩ tại Trường Đại học Sư phạm cao cấp Cachan (nay đổi tên thành Trường Đại học Sư phạm cao cấp Paris Saclay - thuộc khối Đại học Paris Saclay, Cộng hòa Pháp). “Ngày đầu tiên đặt chân tới Pháp, em nhận ra đất nước mình tụt hậu so với phương Tây đến cả trăm năm. Khát vọng trở về xây dựng đất nước có lẽ đã được nung nấu từ những ngày tháng đầu tiên em học tập và làm việc ở phương Tây. Bản thân em nghĩ mình cần đóng góp cho đất nước mình nhiều hơn là đóng góp cho xã hội nước Pháp. Hơn nữa, kể cả khi sự đóng góp đó chưa được nhiều thì làm việc ở quê hương vẫn mang nhiều ý nghĩa hơn so với việc cống hiến cho quốc gia khác. Đành rằng mức lương nhận được khi làm việc ở Việt Nam thấp hơn nhiều nhưng sự tôn trọng và sự công nhận con người sẽ rõ ràng hơn nhiều quốc gia phát triển”, thạc sĩ Bùi Hải Đăng chia sẻ...

Đảng và Nhà nước ngày càng chú trọng xây dựng chính sách “trải thảm đỏ” nhằm thu hút người Việt về nước cống hiến. Tại nhiều địa phương, chủ trương “trải thảm đỏ” luôn nóng trên bàn nghị sự. Tại TP Hồ Chí Minh, chuyên gia, nhà khoa học, người có tài năng đặc biệt sẽ nhận được trợ cấp ban đầu để ổn định công tác; được hưởng mức lương hằng tháng với số tiền bằng mức lương cơ sở nhân với hệ số của bảng lương chuyên gia cao cấp; hưởng hỗ trợ sinh hoạt phí hằng tháng theo năng lực, thành tích mà cá nhân cống hiến; hưởng phụ cấp từ công trình khoa học mà cá nhân tham gia... Ngoài ra, chuyên gia, nhà khoa học, người có tài năng đặc biệt còn được hỗ trợ về nhà ở và phương tiện đi lại, làm việc.

Tại Đà Nẵng, sau 16 năm (1998-2014) thực hiện chính sách thu hút nhân tài, thành phố đã tiếp nhận và bố trí công tác cho 1.269 người tốt nghiệp đại học công lập, chính quy trở lên; trong số này đã có 300 người được bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo. Tính đến cuối tháng 9-2019, Đà Nẵng đã cử 613 người tham gia đề án đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Hiện Đà Nẵng đã thay đổi chiến lược đãi ngộ nhân tài, ưu tiên thu hút nhân tài hơn là chỉ dừng ở việc cử người đi học... Mới đây, Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 27/2020/NĐ-CP trong đó sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 87/2014/NĐ-CP quy định về thu hút cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động khoa học công nghệ tại Việt Nam với nhiều chính sách mới đột phá và nhân văn...[3]

Mặc dù vậy, chính sách thu hút nhân tài vẫn còn biết bao điều trăn trở, khi mà vẫn có những trí thức giỏi, sau một thời gian làm việc trong nước đã đi ra nước ngoài; khi mà vẫn có những địa phương, hàng loạt người tài xin ra khỏi đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Rõ ràng, cơ chế thu hút nhân tài của chúng ta vẫn có điều gì đó chưa ổn, dẫn tới “chảy máu chất xám”. Tôi nhớ có lần trò chuyện với giáo sư Vũ Hà Văn (Đại học Tổng hợp Yale - Mỹ, hiện anh là Giám đốc Khoa học Viện Nghiên cứu dữ liệu lớn của Vingroup). Lúc đó giáo sư mới về nước làm việc ở Viện Nghiên cứu cấp cao về toán và thời điểm đó, giáo sư đã bày tỏ khát khao Nhà nước cần phải tạo một môi trường sao cho trí thức người Việt Nam ở nước ngoài về nước cảm thấy mình thực sự có ích, được Nhà nước hỗ trợ và không bị gò bó bởi các thủ tục hành chính phức tạp.

Giáo sư gợi ý, chúng ta có thể học tập kinh nghiệm của một số nước châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, Hàn Quốc, họ đã có những giải pháp thu hút được số lượng không nhỏ những nhà khoa học gốc Hoa, người Hàn Quốc quay lại làm việc ở trong nước. Theo đánh giá của giáo sư Vũ Hà Văn, cơ chế phát triển người tài ở ta vẫn chủ yếu dựa vào quan hệ, trong khi ở các nước phát triển, năng lực và thành quả lại là thước đo duy nhất. Trả lời báo chí, có lần giáo sư đã bộc bạch rằng: “Môi trường làm việc cực kỳ quan trọng. Silicon Valley thành công được là vì nó không chỉ có một nhóm nghiên cứu, mà mỗi công ty có hàng chục nhóm nghiên cứu. Ở đó có hàng chục công ty lớn, hàng nghìn công ty nhỏ, cộng thêm các trường đại học lớn ở xung quanh. Nó phải là cả môi trường, chứ không phải là một người hay một công ty. Một công ty không làm được gì nhiều. Nếu chúng ta muốn thu hút người tài một cách thực sự thì phải xây dựng một chế độ rõ ràng, minh bạch, hợp lý, chứ không phải bằng cách hô hào chung chung”.

Để “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, Nhà nước phải truyền thêm cho họ nguồn cảm hứng về công cuộc xây dựng, kiến tạo một đất nước Việt Nam hùng cường, khơi dậy trong họ lòng tự tôn dân tộc... Một khi dòng chảy của nguyên khí quốc gia được khai thông thì chắc chắn đất nước sẽ hưng thịnh và phát triển không ngừng...[3]

Nghị quyết lần thứ VII- Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam ghi rõ:

“Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công  tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững”.

Nghị quyết chỉ rõ: “Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ, trong đó chú trọng nội dung xây dựng Đảng về đạo đức  truyền thống, lịch sử, văn hóa của dấn tộc, kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo với rèn luyện trong thực tiễn và đẩy mạnh học tập, làm theo đạo đức phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện nghiêm túc chế độ học tập bồi dưỡng lý luận chính trị và cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, nhất là cán bộ trẻ được đào tạo ở nước ngoài”. Đồng thời “tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ”.

“Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy tín đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới”.

“Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ:

- Xây dựng cán bộ cấp chiến lược đảm bảo đúng tiêu chuẩn quy định và đáp ứng yêu cầu.

- Phát hiện lựa chọn từ nguồn quy hoạch những cán bộ tiêu biểu.

- Bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ mọi mặt, bồi dưỡng toàn diện về kỹ năng, định kỳ cập nhật kiến thức mới theo từng đối tượng.

- Tổ chức các lớp dự nguồn cao cấp để chuẩn bị nhân sự cho chức danh cấp chiến lược.

- Đánh giá chính xác nhân sự được quy hoạch, giới thiệu bầu cử, bổ nhiệm vào chức danh chiến lược”.

Đồng thời “phải kiểm tra chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền”. Việc Trung ương quyết định các bí thư tỉnh, huyện không là người địa phương là một biện pháp mạnh được dư luận hoan nghênh.

Một loạt sai phạm vừa qua tại các ngành, địa phương là đáng báo động, cho thấy công tác cán bộ còn nhiều vấn đề thiếu nghiêm túc từ đào tạo, hướng dẫn, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm, giám sát dẫn tới bổ nhiệm nhiều người thiếu tiêu chuẩn, sai quy định. Ta cứ nói làm đúng quy trình nhưng sao lại sai quy định, khiến dư luận bức xúc. Nơi nào có tình trạng bổ nhiệm, đề bạt sai cần phải quy trách nhiệm người đứng đầu. Chưa cần biết ai đúng, ai sai, ai tham mưu nhưng người đứng đầu địa phương, ngành phải chịu trách nhiệm trước tiên.

GS, TS là những người đã được đào tạo nghiêm túc, được nhà nước tín nhiệm giao cho trọng trách đào tạo nhân tài cho đất nước. Nhưng việc phong GS, PGS của ta chưa nghiêm túc, đặc biệt năm 2017, bị dư luận cực lực phê phán với số lượng đông chưa từng có (1226 người), nhiều người không đủ tiêu chuẩn do tranh thủ trước khi nhà nước ban hành tiêu chuẩn GS, PGS mới nên đã cho kéo dài thời gian nộp hồ sơ, tạo điều kiện của hội đồng đến mức Thủ tướng Chính phủ yêu cầu phải rà soát lại .

Vấn đề đề bạt, bổ nhiệm cán bộ phải trên cơ sở thực chất, năng lực, không còn nặng bằng cấp như đồng chí Phạm Minh Chính - Trưởng ban Tổ chức Trung ương nói: “Chúng tôi đề nghị đánh giá cán bộ đa chiều, trên đánh giá xuống, dưới đánh giá lên, trong đánh giá ra, ngoài đánh giá vào; đánh giá liên tục hàng tuần, hàng tháng, 3 tháng, 6 tháng, lượng hóa đánh giá. Ví dụ Bí thư tỉnh ủy, Bộ trưởng thì sản phẩm như thế nào, năm thứ nhất sản phẩm gì, năm thứ 2 sản phẩm gì, sau 5 năm có sản phẩm không”.[2]

Trong buổi phỏng vấn đầu xuân của phóng viên báo Nhân dân, đồng chí Nguyễn Phú Trọng - Tổng bí thư Trung ương Đảng chỉ rõ: “Có thể nói, chưa bao giờ công tác tổ chức cán bộ của Đảng mà trọng tâm là đổi mới, nâng cao chất lượng, năng lực của tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ được nhấn mạnh và triển khai quyết liệt như hiện nay. Đây là công việc lớn, khó, nhạy cảm, liên quan đến tổ chức và con người cho nên cần phải có những giải pháp căn cơ, vừa mang tầm chiến lược, vừa có tính đột phá, cùng với quyết tâm vượt qua các rào cản trong việc thực thi để tạo ra bước ngoặt phát triển, đem lại động lực mới cho toàn hệ thống chính trị. Việc sắp xếp bố chí cán bộ lãnh đạo, quản lý cũng như cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ phải lựa chọn những người đủ tâm, đủ tầm để gánh vác công việc, chấm dứt tình trạng vì người và đặt ra việc mà không vì việc để chọn người”.[2]

Nghị quyết Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ XIII ghi rõ: Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức  mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam. [1]

  1. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ, chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
  2. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cấp đi đôi với phân cấp, phân quyền nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ quyền lực.

Đồng thời phải:

-  Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương.

- Kiểm soát chặt chẽ quyền lực, sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời, chấm dứt tình trạng chạy chức, chạy quyền.

- Thực hiện nhất quán chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương ở những nơi đủ điều kiện;

- Cải cách chính sách tiền lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc, có cơ chế, chính sách để tạo cạnh tranh, bình đẳng, lành mạnh và thu hút trọng dụng nhân tài.

- Hoàn thiện chơ chế để cán bộ, đảng viên thật sự gắn bó mật thiết với nhân dân và phát huy vài trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.

Hiện nay, thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tốc độ của những đột phá ngày nay là chưa có tiền lệ. So sánh với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, cuộc Cách mạng công nghiệp lần 4 này đang phát triển ở cấp số nhân chứ không phải là cấp số cộng. Hơn nữa nó đang làm biến đổi mọi nền công nghiệp ở mọi quốc gia. Bề rộng và chiều sâu của những thay đổi này tạo nên sự biến đổi của các hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị.

Trong tương lai, sáng tạo công nghệ cũng sẽ thay đổi kỳ diệu lĩnh vực cung cấp với những tiện ích lâu dài về tính hiệu quả và năng suất. Chi phí vận chuyển và liên lạc giảm, dây chuyền hậu cần và cung cấp toàn cầu sẽ trở nên hiệu quả hơn, chi phí thương mại được giảm thiếu. Tất cả những yếu tố đó sẽ mở ra thị trường mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, cuộc cách mạng này cũng có thể tạo ra sự bất công lớn hơn, đặc biệt gây ra nguy cơ phá vỡ thị trường lao động. Khi tự động hóa thay thế con người trong toàn bộ nền kinh tế, người lao động sẽ bị dư thừa và điều đó làm trầm trọng hơn khoảng cách giữa lợi nhuận so với đồng vốn và lợi nhuận so với người lao động.

Trách nhiệm cửa các nhà tri thức chúng ta phải góp phần làm sao cho các mặt tích cực của cuộc cách mạng lần thứ 4 thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển và hạn chế được các bất lợi do cuộc cách mạng kỹ thuật tạo ra.

Để đẩy nhanh việc tạo ra, truyền bá và hấp thụ tri thức, điều quan trọng là phải nâng cấp cơ sở hạ tầng thông tin trong thời hạn càng sớm càng tốt. Đồng thời cần phải sắp xếp những quy định của nhà nước kể cả những quy địnhvề quyền sở hữu trí tuệ, phải thúc đẩy một thị trường tri thức mới phù hợp với những xu hướng của thị trường toàn cầu.

Nhà nước phải thiết lập một hệ thống học tập suốt đời có thể tiếp cận ở bất kỳ nơi nào và vào bất kỳ lúc nào các công dân muốn, với mục đích để các công dân có thể thực sự hiểu được những lợi ích của việc học tập và sự phát triển mình “từ lúc sinh cho đến lúc chết”.

Sử dụng “Dự án công nghiệp tương lai” các công nghệ chiến lược, mà là những yếu tố quan trọng đối với tăng trưởng trong tương lai, sẽ được phát triển. Các nguồn lực đầu tư cho R&D sẽ được phân bố dựa trên tầm quan trọng của các công nghệ chiến lược này. Thêm vào đó, Việt Nam phải có được bí quyết về các công nghệ tiên tiến nhất hiện có, và việc triển khai các dự án R&D bằng việc khuyến khích tham gia của các công ty và viện nghiên cứu nước ngoài vào các dự án R&D của quốc gia.

Cần phải xây dựng hệ thống quản lý và đánh giá việc R&D một cách công bằng và khách quan, sao cho Việt Nam có thể tiến hành chuyển từ việc “R&D định hướng bắt chước” sang việc “R&D sáng tạo”.

Khoa học và công nghệ cần quan tâm  đến địa chỉ ứng dụng, muốn vậy phải tăng cường hình thức đặt hàng, có địa chỉ ứng dụng cụ thể. Thực hiện hình thức khoán gọn trong nghiên cứu khoa học. Phải đối xử công bằng với các thành phần kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp (kể cả tư nhân), có nghiên cứu đổi mới công nghệ, sáng tạo sản phẩm mới.

Cần phải tăng cường chức năng chuyển giao công nghệ giữa các trường đại học và viện nghiên cứu, cải tiến những khuyến khích đối với việc áp dụng các công nghệ mới trong các lĩnh vực thực hành. Đồng thời, cần phải mở rộng các dự án chuyển giao công nghệ đối với các SME có nhiều đổi mới và đặt cơ sở cho việc xúc tiến chức năng của thị trường công nghệ .

Để mở rộng trao đổi tri thức giũa ngành công nghiệp, viện hàn lâm và các viện nghiên cứu, hệ thống cộng tác giữa ba trụ cột này trong hệ thống đởi mới cần phải được củng cố. Để đạt được mục đích này, các khoản đầu tư R&D của chính phủ cho các dự án nghiên cứu  chung cần phải được mở rộng, và việc trao dổi giữa các nhà nghiên cứu phải được phát triển để làm tăng sự luân chuyển tri thức.

Tạo môi trường làm việc dân chủ, lành mạnh để nâng cao hiệu quả công hiến của các đội ngũ tri thức, khác phục tình trạng hành chính hóa, thiếu công khai, minh bạch trong các khâu tuyển dụng, bố trí, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ. Đề xuất với Đảng, nhà nước xây dựng những trung tâm khoa học, công nghệ lớn của đất nước, đổi mới giáo dục, đẩy mạnh hoạt động của các Liên hiệp Hội khoa học - kỹ thuật, Hội văn học - nghệ thuật Việt Nam ở Trung ương và địa phương.

Đồng thời đẩy mạnh hoạt động của khu công nghệ cao. Tạo môi trường thuận lợi để thu hút lực lượng khoa học và công nghệ của các viện nghiên cứu, các trường đại học, hợp tác tại chỗ với nhau và với các chuyên gia kỹ thuật nước ngoài để nghiên cứu, tiếp thu, thích nghi cải tiến các công nghệ mới, chuyển giao trực tiếp cho sản xuất, từng bước góp phần nâng cao năng lực công nghiệp nội sinh của Hà nội và cả nước.

Ươm tạo các công nghệ mới, hỗ trợ các xí nghiệp công nghệ cao  trong nước mới được thành lập còn non nớt về các mặt tư vấn, cơ sở kỹ thuật, tài chính.

Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư  trực tiếp từ nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp, công nghệ hiện đại để nghiên cứu phát triển và sản xuất các sản phẩm công nghệ cao đặc chủng (khối lượng nhỏ, hàm lượng trí tuệ cao), đáp ứng thị trường trong nước và xuất khẩu.

Phát triển nền kinh tế tri thức, phát huy vai trò đầu mối liên hệ với các hệ thống công nghiệp, công nghệ cao quốc tế thông qua việc tham gia vào các mạng lưới cung cấp thiết bị và nguyên liệu, sản xuất và phân phối sản phẩm  ở khu vực và thế giới.

Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp, có vốn đầu tư nước ngoài, với doanh nghiệp trong nước nhằm phát triển công nghệ hỗ trợ và công nghiệp quy mô lớn, chất lượng cao. Gắn với các chuỗi khu vực toàn cầu. khuyến khích thành lập các trung tâm nghiên cứu triển khai của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam .

Khu công nghệ cao Hòa Lạc cần khẩn trương triển khai, các đơn vị nghiên cứu triển khai và đào tạo phục vụ phát triển các công nghệ cao.

Các xí nghiệp công nghệ cao ở quy mô vừa và nhỏ dưới hình thức đầu tư trực tiếp của nước ngoài, liên doanh song phương và đa phương với các đối tác trong nước và nước ngoài.

Các tổ chức dịch vụ khoa học - kỹ thuật nhằm phụ vụ trực tiếp cho các hoạt động nghiên cứu triển khai, phát triển sản phẩm, chế thử, sản xuất và kinh doanh công nghệ.

Xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo Quốc gia, phát huy năng lực sáng tạo của cá nhân, doanh nghiệp tổ chức.

Tăng cường liên kết giữa các tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp, khuyến khích, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, đổi mới công nghệ.

Phát triển, nâng cao năng lực hệ thống các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ, phát triển thị trường khoa học và công nghệ, đồng thời hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo hướng hỗ trợ hiệu quả cho việc vận hành thị trường khoa học và công nghệ.

Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ nhất là các chuyên gia giỏi có nhiều đóng góp.

Tài liệu tham khảo

  1. Nghị quyết Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ XIII
  2. PGS.TS Nguyễn Đức Khiển, “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, Báo điện tử Môi trường - Đô thị 2019.
  3. Thu Phương, “Đầu xuân bàn chuyện cầu hiền đãi sĩ”, Tạp chí An ninh Thế giới xuân Tân Sửu - 2021.
Bạn đang đọc bài viết Chính sách chiêu hiền đãi sĩ. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0912 345 014 Hoặc email: [email protected]

Cùng chuyên mục

Tin mới

Bài thơ: Chuyện thế nhân
Bạn thân hỡi giữa thế giới bao la///Mình cứ sống cuộc đời mình là đủ///Màng làm chi lời khen - chê đủ thứ///Cứ an yên và hết mực chân thành