Thứ năm, 25/04/2024 11:44 (GMT+7)

Phát triển nông nghiệp, nông thôn một cách mạnh mẽ, toàn diện

MTĐT -  Thứ bảy, 03/10/2020 10:06 (GMT+7)

Theo dõi MTĐT trên

Phát triển nông nghiệp bền vững là yêu cầu cấp bách đặt ra cho toàn bộ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.

I. Vì sao phải phát triển toàn diện nông nghiệp, nông thôn?

Nền nông nghiệp nước ta vẫn là một nền nông nghiệp lạc hậu với năng suất, chất lượng, hiệu quả thấp; sức cạnh tranh trên thị trường còn kém.
Kết cấu hạ tầng nông thôn còn lạc hậu. Hiện còn 606 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm, 30% đường huyện, 50% đường xã không đi lại được trong mùa mưa. Hệ thống thủy lợi chỉ mới đảm bảo tưới được 80% đất trồng lúa, một tỷ lệ nhỏ hoa màu và cây công nghiệp. Hệ thống điện nông thôn mới bảo đảm được cho 70% số xã, nhưng chất lượng và hiệu quả dịch vụ thấp.
Năng suất, chất lượng nhiều loại sản phẩm còn thấp. Riêng lúa, mặc dù năng suất trong những năm qua tăng khá nhanh, bình quân hàng năm tăng khoảng 2%, nhưng mới chỉ bằng 65% năng suất lúa của Trung Quốc. Năng suất, chất lượng nhiều mặt hàng như chè, mía, rau, quả, sản phẩm chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản… đều thấp ơn nhiều so với các nước là đối thủ cạnh tranh chính.
Giá thành một số loại sản phẩm sản xuất trong nước còn cao hơn cả giá bán trên thị trường quốc tế, như đường mía cao gấp hơn 2 lần, thịt lợn cao hơn 40%...
Công nghiệp chế biến kém phát triển, chúng ta mới chỉ có 60% sản lượng chè, 30% sản lượng mía, 5% sản lượng rau quả, 1% sản lượng thịt hơi, xấp xỉ 30% sản phẩm thủy sản… được chế biến công nghiệp.
Cho đến nay, thu nhập từ công nghiệp và dịch vụ trong khu vực nông thôn mới chỉ chiếm khoảng 25% GDP ở nông thôn, thấp xa so với nhiều nước trong khu vực (ở Trung Quốc, thu nhập phi nông nghiệp chiếm 35% thu nhập của hộ nông thôn; Hàn Quốc nă m1995 đã đạt 50%...)
Khoảng cách về mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa người giàu với người nghèo ở nông thôn ngày càng rộng; một bộ phận khá lớn cộng đồng dân cư ở nông thôn, nhất là vùng núi, vùng đồng bào dân tộc, vùng bãi ngang ven biển đang sống trong tình trạng nghèo đói.

Ảnh minh hoạ (Nguồn: Internet)

Những vấn đề trên chính là lực cản, thách thức trong quá trình phát triển nền nông nghiệp với đòi hỏi năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đồng thời cũng là thách thức với quá trình xây dựng và phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đảm bảo phát triển bền vững.
Tại thành phố Buôn Ma Thuột (tỉnh Đắc Lắc), chiều 28-9, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã có buổi đối thoại với nông dân khu vực miền Trung - Tây Nguyên với chủ đề: Cùng nỗ lực, vượt thách thức, giữ vững tăng trưởng giá trị nông sản Việt giúp nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh, hiện đại”. Đây là lần thứ ba Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trực tiếp đối thoại với nông dân.
Tham dự hội nghị có khoảng hơn 400 đại biểu gồm: Lãnh đạo các bộ, ngành liên quan; Hội Nông dân các tỉnh, thành phố; các chuyên gia, nhà khoa học, các hiệp hội, cộng đồng doanh nghiệp và hơn 300 nông dân xuất sắc, tiêu biểu đại diện cho hơn 14 triệu hộ nông dân của cả nước.
Phát biểu tại buổi đối thoại, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh “nông nghiệp, nông dân và nông thôn có vị thế đặc biệt quan trọng; là trụ đỡ của nền kinh tế qua mọi thời kỳ phát triển của đất nước từ kháng chiến, xây dựng đất nước và ngay cả cuộc chiến phòng, chống COVID-19.

Nông nghiệp cũng giải quyết số lượng việc làm rất lớn; đồng thời đóng góp tích cực vào xuất khẩu. Năm 2020, xuất khẩu từ nông nghiệp có thể đạt 42 tỷ USD, đưa Việt Nam là một trong những quốc gia dẫn đầu khu vực Đông Nam Á trong lĩnh vực này”. Theo Thủ tướng, cơ bản trong năm 2020, nông nghiệp được mùa, trúng giá cả lúa gạo, thủy sản, trái cây, gỗ rừng trồng… “ có thể nói một nền nông nghiệp thắng lợi toàn diện”. Tuy vậy, thủ tướng nêu rõ, còn nhiều trăn trở, khó khăn về nông nghiệp, nông thôn, người nông dân cần tháo gỡ mà cuộc đối thoại này góp phần vào việc tháo gỡ đó.
Nông dân Đỗ Quý Toán (thôn Tân Lập, xã Ea Na, huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk) quan tâm đến những giải pháp của Chính phủ nhằm tận dụng cơ hội xuất khẩu cà phê theo Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu với thuế suất 0%. Các nông dân: Võ Tuấn Tú, thôn Châu Trúc, xã Mỹ Châu, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định và Lê Minh Quyền ở phường Vĩnh Nguyên, TP.Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa đặt câu hỏi về những giải pháp của Chính phủ nhằm tháo gỡ khó khăn cho những người làm nghề nuôi trồng và khai thác thủy sản trong bối cảnh giá cả giảm, khó tiêu thụ.
Trả lời các câu hỏi, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định “cà phê là sản phẩm chủ lực chiến lược của Việt Nam, cà phê Việt Nam có chất lượng rất tốt, được thế giới đánh giá cao. Cà phê Tây Nguyên là thương hiệu quý, vì vậy, cần tiếp tục duy trì và quy hoạch vùng trồng phù hợp,
nâng cao quy hoạch chất lượng trồng cà phê, thâm canh có chất lượng đối với cây cà phê”.
Tham gia trả lời câu hỏi về nuôi trồng và khai thác thủy sản, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cho biết: “Bộ đang xây dựng chiến lược nuôi biển với mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 sản lượng đạt 23 triệu tấn. Ngoài nuôi xa, sẽ tập trung nuôi gần với những loài như rong, tảo, rong sụn”...
Phát biểu kết luận hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh: “Quan điểm phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn của Đảng, Nhà nước ta là phát triển một cách mạnh mẽ, toàn diện”. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoan nghênh các doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài, các nhà khoa học luôn phối hợp chung vai sát cánh cùng nông dân, thực hiện tốt mối liên kết 6 nhà (nhà nông - Nhà nước - nhà khoa học - ngân hàng - nhà doanh nghiệp - nhà phân phối).
Thủ tướng khẳng định: “Khát vọng xây dựng một Việt Nam hùng cường, cũng chính là khát vọng của những người nông dân Việt Nam. Mục tiêu của chúng ta trong giai đoạn tới là thúc đẩy, giúp nông dân tăng thu nhập. Hiện nay, nhiều sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam dù đứng đầu thế giới, như cà phê, hồ tiêu, cao su, gạo, chè…, nhưng vẫn xuất thô nhiều, hàm lượng chế biến thấp. Đây là điểm yếu, nhưng cũng là cơ hội để chúng ta phát triển, đẩy mạnh chế biến các mặt hàng nông sản chủ lực”.
Ngay sau hội nghị đối thoại với nông dân miền Trung - Tây Nguyên, chiều tối 28-9, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Đoàn công tác của Chính phủ đã có buổi làm việc với lãnh đạo chủ chốt tỉnh Đắk Lăk - địa phương nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên, giữ được tốc độ tăng trưởng tốt trong bối cảnh khó khăn do dịch Covid. Phát biểu tại buổi làm việc, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá, Đắk Lắk đã có sự cố gắng lớn, nhiều mặt, liên tục nên đã đạt được nhiều thành tựu trong bối cảnh khó khăn do tác động của dịch Covid-19.
Về công tác chuẩn bị tổ chức Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XVII (nhiệm kỳ 2020-2025 sắp tới) Đảng bộ tỉnh Đăk Lăk sắp tới Thủ tướng đề nghị “cần làm tốt công tác chuẩn bị nội dung, hoàn thiện các dự thảo văn kiện với quyết tâm chính trị cao nhất; phát huy dân chủ; nghiên cứu kỹ tình hình, đặc thù của địa phương.
Tại buổi làm việc, Thủ tướng đã chứng kiến lễ trao 100 căn nhà của ngành Ngan hàng cho người nghèo tỉnh Đăk Lăk.
Bà Vi Thị Thanh (Đắk Nông) nêu vấn đề trong khi nhiều cây công nghiệp truyền thống ở Tây nguyên như cà phê, cao su, hồ tiêu đồng loạt mất giá thì cây mắc ca được xem là một hướng đi mới. Thế nhưng, nhiều vùng như ở Tuy Đức (Đắk Nông), nông dân khốn khổ vì đầu tư trồng cây mắc ca được 5 - 6 năm mới biết cây không có quả hoặc rất ít quả, do cây giống kém chất lượng. “Chính phủ, Bộ NN-PTNT có giải pháp gì để phát triển cây mắc ca?”, bà Thanh hỏi.

Thủ tướng cho biết ngày hôm sau (29.9), sẽ có hội nghị tổng kết 5 năm trồng mắc ca ở Việt Nam, đánh giá kết quả, cùng nguyên nhân chưa thành công và giải pháp phát triển mắc ca. “Đây là loại cây mới, có hiệu quả nhưng có vấn đề về giống. Việc giống không phù hợp, ai cung cấp giống, phải yêu cầu làm rõ”. Tại hội nghị, Thủ tướng chủ trì sẽ cùng các bộ, ngành lắng nghe, ý kiến từ các bên để tìm ra giải pháp tốt nhất phát triển cây mắc ca.

Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, sau 5 năm triển khai quy hoạch, đến nay, cả nước đã trồng được trên 16.500ha cây mắc ca tại 23 tỉnh. Ngoài ra, còn có hơn 1.000ha nằm rairacs tại 14 tỉnh khác chưa có trong quy hoạch. Về sản lượng, năm 2020, dự kiến thu hoạch gần 6,6 nghìn tấn hạt tươi, tăng gần 24,5 lần so với năm 2015. Với giá bán sản phẩm dạng hạt sấy khoảng 200 triệu đồng/tấn như hiện nay, ước tính hơn 4.000 tấn hạt sấy sẽ mang lại giá trị khoảng 788 tỷ đồng (trong đó khoảng 60% xuất khẩu tới các thị trường Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Mỹ, Pháp…; còn lại phục vụ tiêu dung trong nước).

Theo Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường, “cây mắc ca đã có những tác động tích cực tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho khoảng 10.000 hộ gia đình nông thôn, góp phần thay đổi diện mạo nông thôn, đưa mắc ca trở thành cây trồng có giá trị cao của ngành nông nghiệp. Song việc phát triển cây mắc ca cũng gặp không ít những khó khăn, trở ngại và thách thức, như: Công tác nghiên cứu chọn giống, quản lý giống… Theo dự báo, thời gian tới, cả sản lượng cung và cầu trên thế giới đều tăng nhanh và đây là cơ sở quan trọng để xây dựng mắc ca thành một ngành hàng mới của nông nghiệp Việt Nam. Phấn đấu đến năm 2030 đạt doanh thu 1 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 600 triệu USD”.
Phát biểu kết luận hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá, so sánh với ngành trồng cà phê - lĩnh vực xuất khẩu chiếm vị trí thứ 2 thế giới của Việt Nam, mắc ca “đi sau về trước”, phát triển bước đầu như vậy là thành công. Mắc ca là loại cây sinh thái, xóa đói giảm nghèo; là loại cây dinh dưỡng; góp phần tham gia gìn giữ quốc phòng, an ninh. Loại cây này có thể trồng ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, chứa đựng nhiều giá trị xã hội đặc biệt, thay vì đơn thuần chỉ tính đến hiệu quả kinh tế.
Đặt câu hỏi: “Mắc ca cần 10 năm hay 20 năm để phát triển thành loại cây trồng xuất khẩu đứng đầu thế giới của Việt Nam?” Từ đó, Thủ tướng yêu cầu ngành Nông nghiệp, cá nhà khoa học và doanh nghiệp, người nông dân cần trả lời cho được câu hỏi này để mắc ca phát triển xứng tầm với điều kiện của Việt Nam. Đồng thời đề nghị các đại biểu thảo luận về vấn đề thị trường, vì “khi người nông dân bổ một nhát cuốc xuống đất thì phải nghĩ ngay đến thị trường”

Nhắc lại yêu cầu của Chính phủ đối với phát triển cây mắc ca “đi sau nhưng phải về trước”, Thủ tướng cho rằng, “nếu ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiệu quả, tăng chế biến chiều sâu, hiệu quả đối với cây mắc ca còn lớn hơn rất nhiều. Vì vậy, Thủ tướng đề nghị cần có quy hoạch tiểu vùng, cùng với chế biến sau và đi đôi với quản lý vốn để phát triển lâu dài. Cho rằng dù thời gian gần đây, mắc ca phát triển nhanh nhưng chỉ trên diện tích và sản lượng nhỏ, Thủ tướng yêu cầu cần tăng cao hơn nữa thu nhập từ 1ha mắc ca và đặc biệt cần phát triển nhanh hơn nữa diện tích trồng trong thời gian tới.

Người đứng đầu Chính phủ lưu ý, cần chú ý ngay từ khâu chọn giống cây mắc ca cho phù hợp, nhất là về phương pháp ghép. Đối với vùng Tây Nguyên, trồng xen kẽ do diện tích lớn đã dành cho trồng cà phê, Còn vung Tây Bắc trồng tập trung. Các địa phương khác có thể trông this điểm để xem xét, đánh giá.

Theo Thủ tướng, “phải đồng bộ công nghiệp chế biến theo hướng “càng sâu càng tốt”. Do là loại sản phẩm mới nên các ngành ngân hàng, tài chính cần dành nguồn vốn cho phát triển cây mắc ca, không để người dân “đơn thân độc mã” trong phát triển cây mắc ca. Cùng với đó là quản lý đồng bộ về phát triển cây mắc ca khi công bố quy hoạch”…

Tại hội nghị, Thủ tướng giao bộ NN&PTNT và hiệp hội cây mắc ca xây dựng chiến lược phát triển cây mắc ca tại Việt Nam. Bộ NN&PTNT xây dựng nghị định về phát triển cây mắc ca, tránh tình trạng phan mảnh trong sản xuất như hiện nay. Nông dân Trần Thị Hoàng Anh (H.la,Grai, Gia lai)băn khoăn về phân bón giả còn lưu hành trên thị trường. “Để sản suất nông nghiệp tốt hơn, làm ra nông sản sạch, an toàn hơn. Chính phủ các bộ ngành có giải pháp nào triệt để hơn, để chấm dứt tình trạng phân bón giả”.

Liên quan vấn đề này, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT NGuyễn Xuân Cường cho biết “4 năm trước chúng ta chưa có đến 80.000 tấn phân bón hữu cơ thì đế nay chúng ta sản xuất gần 4 triệu tấn phân hữu cơ. Hiện nay nước ta có 125.000ha gieo trồng nông nghiệp bằng phương thức hữu cơ. Năm 2019 cả nước xuất khẩu 353 triệu USD nông sản hữu cơ đi 80 nước. Điều này chứng tỏ chúng ta đang vận hành một nền nông nghiệp văn minh, một nền nông nghiệp sạch ổn định”.

“Tuy nhiên, không phải tất cả đã tốt rồi, còn nhiều chỗ chúng ta cần phải tiếp tục chấn chỉnh”. Tại buổi đối thoại, hai người dân Võ Tuấn Tú (H.phù Mỹ, Bình Địn) và Lê Minh Quyền(TP.Nha Trang Khánh Hòa) đặt câu hỏi cho thủ tướng với nội dung. “Chính phủ phải có chính sách, giải pháp nào để phát triển, mở rộng tiền năng nuôi trồng thủy hải sản ở nước ta, giải pháp nào để hỗ trợ ngư dân vươn khơi, bám biển”.
Trả lời câu hỏi này, ông Nguyễn Xuân Cường bộ trưởng Bộ NN&PTNT, cho rằng “về lâu dài, ngành thủy hải sản của nước ta không trông chờ vào khai thác ngoài tự nhiên mà tập trung vào nuôi trồng và chế biến. Chỉ có nuôi trồng, chế biến sâu thì mới có một ngành thủy sản phát triển bền vững. Nước ta có nhiều lợi thế, nhiều loại thủy hải sản để nuôi. Hiện Bộ NN&PTNT đang trình Thủ tướng về đề án nuôi biển có lộ trình đến năm 2030. Theo đó, mục tiêu đến năm 2030, nước ta sẽ nuôi được 2 - 3 triệu tấn hải sản”.

“Chính phủ có những chiến lược cụ thể để hợp tác với Na Uy, nhằm chuyển giao công nghệ tốt nhất về nuôi trồng thủy hải sản” ông Cường nói.

Sau trả lời của ông Cường, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu các lãnh đạo Bộ NN&PTNT và các ngành liên quan phải có định hướng và chiến lược nuôi biển cụ thể. Giúp bà con chủ động về nguồn công nghệ chế biến để nâng cao hiệu quả của sản xuất thủy sản.

Ảnh minh hoạ (Nguồn: Internet)

II. Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp công nghệ cao
Để nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp, nhiều giải pháp đang được TP Hồ Chí Minh triển khai thực hiện. Trong đó, nền tảng là ứng dụng công nghệ cao, giúp nông dân tiếp cận, đưa khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, góp phần nâng cao giá trị kinh tế trên đơn vị canh tác.
Hiện nay, TP Hồ Chí Minh đã bắt đầu ứng dụng công nghệ sinh học và sản xuất các chế phẩm phục vụ nông nghiệp, ứng dụng này bước đầu giúp giảm chi phí sản xuất và góp phần bảo vệ môi trường. Thành phố cũng đã thành công trong ứng dụng công nghệ cắt phôi và cải tiến phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm đối với bò Australia. Kết quả đã tạo ra lứa bê đầu tiên có khả năng sinh sản và tốc độ sinh trưởng không thua kém ở nước bản địa…
Tuy vậy những ứng dụng trên còn manh mún và việc ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất vẫn chưa thực sự được đầu tư bài bản. Đây được xem là thách thức lớn khi nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng. Ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp không chỉ là đưa máy móc, thiết bị kỹ thuật hiện đại vào sản xuất mà còn là công nghệ trong quản lý và vận hành nền sản xuất nông nghiệp.
Hiện TP Hồ Chí Minh đang xây dựng mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao với mục tiêu chính là hướng đến sản phẩm chất lượng, năng suất và giá trị gia tăng cao với sự tham gia của các chủ thể là nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp (thu mua, phân phối) và các đơn vị hỗ trợ công nghệ. Để tạo cơ chế vận hành mô hình này, các chuyên gia cho rằng cần tháo gỡ những rào cản trong việc xây dựng các chương trình, đề án, dự án trong nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp. Trong đó cần quy hoạch khu nông nghiệp công nghệ cao và vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao sao cho có sự gắn kết chặt chẽ. Theo đó khu nông nghiệp công nghệ cao giữ vai trò nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, còn vùng nông nghiệp, công nghệ cao sẽ ứng dụng công nghệ đó và sản xuất, tạo ra sản phẩm chất lượng cao.
Về định hướng, Giám đốc Sở NN & PTNT Hà Nội Chu Phú Mỹ cho biết, thành phố sẽ đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất cây, con đặc sản và phát triển nông nghiệp theo hướng công nghệ cao, thông minh… Ví như, với nông dân ở Ứng Hòa, khi triển khai các mô hình đa canh lúa - cá - vịt, cần tiếp tục hỗ trợ, khuyến khích phát triển lúa chất lượng cao, vịt chăn nuôi theo hướng đặc sản, nuôi trồng thủy sản ứng dụng công nghệ mới… chứ không khuyến khích phát triển rau hay các loại cây ăn quả… Ngược lại, với các vùng cây ăn quả đã được định hình tại các huyện Chương Mỹ, Phúc Thọ, Đan Phượng… sẽ tập trung đào tạo, hỗ trợ nông dân về kỹ thuật để tạo sản phẩm tốt nhất. Song hành, ngành Nông nghiệp hỗ trợ nông dân về thông tin thị trường, đặc biệt, chú trọng xây dựng chuỗi liên kết và hỗ trợ các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm cho nông dân; xây dựng thương hiệu sản phẩm mang tính đặc thù từng địa phương.

Thời gian qua, Trung tâm xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch thành phố Hà Nội đã phối hợp với nhiều tỉnh, thành phố để xây dựng và phát triển chuỗi cung cấp rau xanh, thực phẩm tươi sống bảo đảm an toàn, nhằm đẩy mạnh khai thác sản phẩm thế mạnh của các địa phương, đáp ứng nhu cầu tiêu dung của người dân Thủ đô.

Tháng 4/2018, Tổng công ty Hapro đã tổ chức sự kiện “Hạt ngọc Đồng Tháp Mười”, giới thiệu sản phẩm gạo cao cấp của vùng Đồng bằng sông Cửu Long gồm ba nhãn hiệu: Gạo Japonica, gạo Hương lài sữa dẻo và gạo Hương chín rồng, được đóng bao 5kg tại nhà máy chế biến và sản xuất gạo Hapro tại tỉnh Đồng tháp. Với những ưu thế về thổ nhưỡng và điều kiện tự nhiên, “hạt ngọc” Đồng Tháp khi nấu chin dẻo, mang hương thơm đặc trưng của từng loại gạo và đặc biệt chứa hàm lượng dinh dưỡng cao vượt trội so với các loại gạo thông thường. Đặc biệt, ba sản phẩm gạo chất lượng cao nói trên được tiêu thụ rất tốt tại thị trường nước ngoài và được người tiêu dùng Thủ đô đánh giá cao về chất lượng.

III. Các biện pháp tổng thể để nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững
1. Phát triển nông nghiệp bền vững là yêu cầu cấp bách đặt ra cho toàn bộ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng cho tương lai nông thôn, nông nghiệp nước ta; tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng không phá vỡ cân bằng sinh thái, hủy hoại môi trường, mọi chính sách, mọi đề án phát triển nông nghiệp, nông thôn phải đáp ứng các yêu cầu về phát triển bền vững.
2. Cần có chính sách bảo vệ lợi ích chính đáng của nông dân. Giúp nông dân tránh bớt được rủi ro trong cơ chế thị trường và khi gặp thiên tai thì có thể tháo gỡ được, làm cho nông dân yên tâm đầu tư sản xuất, có như vậy người dân mới yêu mảnh đất, mảnh vườn của mình; sản xuất hôm nay nhưng vẫn nghĩ đến tương lai lâu dài, chăm lo cải tạo và không ngừng tăng độ phì nhiêu của đất, nghĩa là phát triển sẽ gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.
Nếu làm được như vậy thì những hàng rào ngăn cản sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội mới được tháo gỡ, tạo ra động lực thu hút đầu tư và tự đầu tư trong dân. Bên cạnh đó cũng phải có chính sách phù hợp thu hút đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, không ngừng tăng chất lượng nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn.
3. Nâng cao nhận thức của xã hội, các ngành, các cấp về vị trí và vai trò phát triển nông nghiệp, nông thôn. Phải xác định nông nghiệp và nông thôn phát triển bền vững thì toàn xã hội mới phát triển bền vững được. Hiện nay, một bộ phận trong xã hội còn lầm tưởng rằng phát triển mạnh công nghiệp, thương mại, dịch vụ, đầu tư nhiều vào khu công nghiệp, tăng cường đầu tư nước ngoài… thì sẽ nhanh chóng làm giàu, nhanh chóng đưa đất nước phát triển. Chính từ nhận thức đó mà chúng ta chưa có chính sách hữu hiệu và chưa chú trọng vào đầu tư phát triển cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn, tạo ra sự phát triển bền vững lâu dài. Quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn chủ yếu là để cho nông dân tự lo, tự bươn chải với thị trường mà ít tập trung tháo gỡ, định hướng và giúp đỡ nông dân để họ đi lên và đi ra được một cách vững vàng. Kết quả là nông dân vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; các cơ quan nhà nước chưa thực hiện được chức năng định hướng, hướng dẫn sản xuất và dịch vụ tiêu thụ sản phẩm cho nông dân; người nông dân chủ yếu vẫn chạy theo “phong trào” và gặp nhiều khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, từ đó dẫn đến phát triển tự phát, thiếu các yếu tố cần thiết cho phát triển bền vững.
4. Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải gắn với vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái. Tập trung đầu tư nghiên cứu khoa học - kỹ thuật, nhất là đầu tư cho việc nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu mới nhất về công nghệ sinh học; gắn nghiên cứu với chuyển giao để giúp nông dân tiếp cận và sử dụng được những thành tựu về giống cây trồng, vật nuôi, tạo ra khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về nông sản, thực phẩm, đặc biệt là sản phẩm sạch, cho tiêu dùng và nguyên liệu cho công nghiệp, cũng như sản phẩm cho xuất khẩu có đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
Làm tốt công tác quy hoạch phát triển các làng nghề trên cơ sở bảo vệ môi trường sinh thái các khu dân cư, có chính sách để huy động sự đóng góp chung của hộ sản xuất và bảo vệ môi trường, môi trường trong làng, xã. Tăng cường các biện pháp hỗ trợ về vốn và kỹ thuật, kể cả tư vấn, để các làng nghề có điều kiện tiếp cận công nghệ sạch.
5. Chú trọng tổng kết và nhân rộng các điển hình tiên tiến của các hình thức kinh tế hợp tác và các loại hình hợp tác xã, trên cơ sở đó huy động và khuyến khích mọi thành phần, mọi lực lượng xã hội tham gia đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn, gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới; gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với thực hiện dân chủ hóa (theo quy chế dân chủ cơ sở) trong nông thôn.
6. Tiếp tục tuyên truyền, vận động để nông dân ý thức được hiệu quả của việc “đổi điền dồn thửa” vươn lên sản xuất hàng hóa lớn và giảm chi phí sản xuất. Như trên đã nói: Không tích tụ được ruộng đất, không thể tiến hành CNC trong sản xuất nông nghiệp.
7. Các chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn tại các địa phương cũng phải thể hiện được những nội dung của chính sách xã hội. Từ việc thu hút vốn đầutư cho đến kế hoạch phát triển kinh tế cụ thể phải kết hợp chặt chẽ với các phương án nâng cao mức sống chung và xóa đói giảm nghèo. Tạo điều kiện cho dân cư nông thôn làm giàu, xóa dần sự các biệt về thu nhập và đời sống giữa nông thôn và thành thị. Có biện pháp thiết thực hướng dẫn và hỗ trợ các hộ thuộc diện nghèo tạo địa phương để họ một mặt được thụ hưởng một cách hiệu quả sự quan tâm giúp đỡ của toàn xã hội, mặt khác, phát huy được tinh thần tự vươn lên thoát khỏi đói nghèo bằng tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế gia đình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. PGS.TS Nguyễn Đức Khiển, “Phát triển nông nghiệp - Xây dựng nông thôn mới” - NXB Nông nghiệp, 2017.
2. Báo TN ngày 14/10/2016, “Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp công nghệ cao”.
3. Báo Tiền phong ngày 21/11/2018, “Nông dân Việt sẽ đổi đời”.

PGS.TS Nguyễn Đức Khiển

Nguyên Giám đốc Sở KH-CN-MT Hà Nội

Bạn đang đọc bài viết Phát triển nông nghiệp, nông thôn một cách mạnh mẽ, toàn diện. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0912 345 014 Hoặc email: [email protected]

Cùng chuyên mục

Tin mới