Thứ sáu, 29/03/2024 15:16 (GMT+7)

Nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị đáp ứng yêu cầu xây dựng, quản lý phát triển đô thị bền vững

MTĐT -  Thứ ba, 05/07/2022 11:42 (GMT+7)

Theo dõi MTĐT trên

Cách thức quản lý đô thị, nhân lực quản lý phát triển đô thị và công cụ quản lý đô thị tác động tới chất lượng phát triển đô thị của mỗi thời kỳ.

Đô thị được hình thành từ lịch sử phát triển, phản ánh mô hình tổ chức và phát triển kinh tế - xã hội qua từng thời kỳ. Cách thức quản lý đô thị, nhân lực quản lý phát triển đô thị và công cụ quản lý đô thị tác động tới chất lượng phát triển đô thị của mỗi thời kỳ. Trong đó, quy hoạch đô thị là công cụ hữu ích, quan trọng cho công tác quản lý đô thị. Mô hình quy hoạch đô thị bao gồm: phương pháp tiếp cận, quy trình thực hiện, nội dung nghiên cứu, hồ sơ sản phẩm và tổ chức thực hiện quy hoạch được duyệt.

1. Hạn chế trong công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị

1.1. Hạn chế trong công tác lập quy hoạch

a. Hạn chế trong phương pháp tiếp cận

Hệ thống đồ án quy hoạch đô thị, loại hình quy hoạch, quy mô lập quy hoạch, đối tượng lập quy hoạch đô thị tại Việt Nam rất đa dạng, phong phú, được lập bởi nhiều đơn vị tư vấn trong và ngoài nước khác nhau dẫn tới sản phẩm của quy hoạch đô thị khá khác biệt của các đồ án. Nếu coi đồ án quy hoạch là sản phẩm của nghiên cứu khoa học và sáng tạo nghệ thuật thì mỗi đồ án có phương pháp tiếp cận khác nhau, không thống nhất giữa các đồ án khác nhau.

Phương pháp luận quy hoạch thay đổi theo các giai đoạn phát triển kinh tế xã hội, gắn với hội nhập quốc tế, chúng ta có các hợp tác nghiên cứu lập quy hoạch đô thị, từ đó trong các đồ án quy hoạch đã áp dụng các phương pháp luận mới của các nước tiên tiến trên thế giới, các phương pháp luận của quốc tế đã được điều chỉnh theo từng đồ án để phù hợp với bối cảnh kinh tế xã hội và quy định pháp luật tại Việt Nam. Về tổng thể phương pháp luận quy hoạch đô thị hiện tại và có tính phổ biến là phương pháp quy hoạch tổng thể.

Phương pháp quy hoạch tổng thể tương đối phù hợp với thể chế, phương thức điều hành nền kinh tế, tổ chức hệ thống hành chính theo tầng bậc của nước ta trong giai đoạn vừa qua. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay, khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần phải chọn vấn đề định hướng phù hợp trong quy hoạch đô thị để hướng tới mục tiêu phát triển xã hội và những vấn đề cần phải linh hoạt theo quy luật của thị trường.

Quy trình lập quy hoạch đô thị hiện tại chủ yếu thực hiện theo 4 bước bước gồm: Đánh giá hiện trạng - Dự báo phát triển - Đề xuất giải pháp quy hoạch - Đề xuất sản phẩm quy hoạch (sản phẩm quy hoạch được quy định thống nhất trong Luật gồm bản vẽ, thuyết minh). Tác động đến sản phẩm quy hoạch còn có quy trình thẩm định phê duyệt, quy trình tham gia của các bên liên quan tới hoạt động quy hoạch.

Cùng với quá trình thay đổi phương pháp lập quy hoạch, theo quy định pháp luật đã tách ra các nội dung công việc để hình thành các loại hình công việc mới mà trước đây là một phần của công tác lập quy hoạch như:

- Chương trình phát triển đô thị: Được tách ra từ phân kỳ thực hiện quy hoạch để xác định cụ thể các chương trình dự án, nguồn lực thực hiện quy hoạch theo từng giai đoạn, gắn với trách nhiệm của các bên liên quan.

- Thiết kế đô thị riêng: Tách nội dung nghiên cứu về không gian, kiến trúc cảnh quan để đưa ra các chỉ dẫn thiết kế cụ thể tạo nên đặc trưng, chất lượng mỹ quan của từng khu phố hoặc tuyến phố. Nội dung này trong thực tiễn triển khai còn nhiều lúng túng

- Quy định, quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc: Điều lệ quản lý trong đồ án quy hoạch trước đây được nâng cấp thành Quy định quản lý theo đồ án quy hoạch (hoạch hoạch bằng chữ để bổ trợ cho hệ thống bản vẽ trong công tác quản lý phát triển đô thị) và nhiều đô thị lập riêng thành Quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc.

Trong thực tế triển khai tại một số đô thị còn có các loại hình như: quy hoạch tổng mặt bằng, chứng chỉ quy hoạch, giấy phép quy hoạch, thỏa thuận quy hoạch, hồ sơ xin chủ trương lập mới hoặc điều chỉnh quy hoạch, lập hồ sơ chỉ giới đường đỏ… là các sản phẩm khác nhau của công tác quy hoạch, nhiều công tác còn được thực hiện cầu kỳ hơn cả đồ án quy hoạch mới, nhưng tính pháp lý và quy trình triển khai không có, theo quy định cục bộ của từng đô thị, từng địa phương.

b. Hạn chế về quy trình lập quy hoạch đô thị

+ Thời gian lập quy hoạch kéo dài

Luật Quy hoạch đô thị và Luật Xây dựng quy định về tầng bậc lập quy hoạch, quy hoạch từ trên xuống dưới và quy hoạch cấp dưới phải tuân thủ quy hoạch cấp trên. Luật cũng quy định thời gian tối đa cho từng giai đoạn lập quy hoạch để đảm bảo rút ngắn thời gian và tiến độ lập quy hoạch.

Trong thực tế thời gian lập quy hoạch được kéo dài rất nhiều so với quy định pháp luật do phải qua nhiều bước. Ví dụ Thủ đô Hà Nội, năm 2008 mở rộng địa giới hành chính bắt đầu lập quy hoạch chung (các quy hoạch và dự án phải tạm dừng), đến cuối năm 2011 Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch chung xây dựng, Thành phố mất 5 năm (2011 - 2016) để lập các đồ án quy hoạch phân khu đô thị, sau đó tiến hành lập các đồ án quy hoạch chi tiết làm cơ sở để triển khai trung bình 2 năm/đồ án. Như vậy Thủ đô Hà Nội mất 10 năm để thực hiện 3 bước quy hoạch (quy hoạch chung, quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết) so với quy định của pháp luật là 2 năm (12 tháng lập quy hoạch chung, 9 tháng lập quy hoạch phân khu, 6 tháng lập quy hoạch chi tiết) đã làm quy hoạch chậm đi vào cuộc sống, không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và mất nhiều cơ hội phát triển xây dựng đô thị, cải thiện môi trường sống.

Thời gian lập quy hoạch nhiều bước, kéo dài cũng ảnh hưởng nhiều tới các đô thị trung bình và đô thị nhỏ, nhiều đô thị quy mô không lớn, hoặc nhiều khu vực dự án phải lập đầy đủ cả quy hoạch chung, quy hoạch phân khu và quy hoạch chi tiết trên cùng một phạm vi diện tích làm ảnh hưởng rất nhiều tới thời gian chuẩn bị đầu tư của dự án. Các quy trình pháp luật mới làm ảnh hưởng tới thời gian lập quy hoạch như quy trình đấu thầu lựa chọn tư vấn, quy trình lập nhiệm vụ được thực hiện đầy đủ như lập đồ án quy hoạch, quy trình lấy ý kiến cộng đồng, quy trình thỏa thuận của các cơ quan cấp trên… làm ảnh hưởng tới tiến độ lập quy hoạch và làm kéo dài thời gian lập quy hoạch.

Quy trình thủ tục hành chính giải quyết các công việc trong các bước triển khai lập quy hoạch bị kéo dài hơn so với quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng tới kéo dài thời gian lập quy hoạch. Nhiều cơ quan hành chính đang giải quyết thủ tục theo hướng đối phó với các quy định pháp luật, làm ảnh hưởng rất nhiều tới thời gian và chất lượng của đồ án quy hoạch.

Quy định pháp luật về quy quy trình và nội dung công tác lập quy hoạch đô thị chưa đủ cụ thể (còn chung chung, chưa chi tiết), chưa rõ ràng (còn hiểu khác nhau) sẽ dẫn tới việc áp dụng thực hiện khác nhau, làm ảnh hưởng tới thời gian và nội dung của đồ án quy hoạch đô thị.

Trong giai đoạn vừa qua, để tăng cường thu hút đầu tư, tạo điều kiện thúc đẩy tiến độ triển khai dự án, chính quyền đô thị đã chấp nhận các nội dung điều chỉnh cục bộ quy hoạch chung, chấp thuận dự án sau đó cập nhật vào quy hoạch chung và quy hoạch phân khu.

+ Hạn chế trong quy hoạch tầng bậc

Hệ thống quy hoạch đô thị được điều chỉnh bởi Quyết định 322 (trước năm 2003); Nghị định 08- Luật Xây dựng 2004 và Luật Quy hoạch đô thị năm 2009 được xây dựng theo tư duy phương pháp quy hoạch tổng thể, vì vậy sản phẩm cuối cùng và phương thức đánh giá, phê duyệt và áp dụng trong quản lý hoạt động xây dựng đô thị tương đối giống nhau.

Hệ thống luật quy hoạch quy định theo tầng bậc, tuân thủ từ trên xuống dưới gồm: Quy hoạch cấp quốc gia - Quy hoạch cấp vùng - Quy hoạch cấp tỉnh - Quy hoạch đô thị - Quy hoạch phân khu - Quy hoạch chi tiết - Dự án đầu tư. Các quy hoạch cấp dưới phải tuân thủ và phù hợp với các quy hoạch cấp trên. Tuy nhiên, thực tế loại hình quy hoạch cấp vùng, quy hoạch phân khu mới được triển khai, phương pháp thực hiện còn nhiều lúng túng, nhiều địa phương chưa được lập để điều tiết thực tiễn và các quy hoạch cấp dưới. Loại hình quy hoạch phổ biến được lập là quy hoạch chung đô thị và quy hoạch chi tiết của các dự án đầu tư.

Các quy hoạch cấp trên chưa xác định cụ thể được nội dung điều chỉnh, vấn đề cần điều chỉnh, đối tượng cần điều chỉnh, vì vậy đề cập tới rất nhiều vấn đề, trong bối cảnh không nghiên cứu kỹ vấn đề hiện trạng, dẫn tới khi áp dụng vào thực tế thì bị mâu thuẫn, các quy hoạch cấp dưới khi nhận thấy sự không phù hợp của quy hoạch cấp trên sẽ phải điều chỉnh làm ảnh hưởng tới thời gian lập quy hoạch và vô hiệu hóa các định hướng của quy hoạch cấp trên.

Trong thực tiễn triển khai của nhiều đô thị, quá trình cụ thể hóa từ quy hoạch chung, quy hoạch phân khu đến quy hoạch chi tiết đã phải thay đổi định hướng của quy hoạch cấp trên, mặc dù trong quy hoạch hiện nay mới chỉ đề cập tới một số vấn đề cơ bản là chức năng, mật độ xây dựng, tầng cao công trình.

c. Hạn chế về nội dung quy hoạch đô thị

+ Hạn chế trong đánh giá hiện trạng

Công tác đánh giá hiện trạng trong quy hoạch đô thị tương đối yếu do thiếu hệ thống cơ sở dữ liệu, thiếu công cụ để nghiên cứu đánh giá hiện trạng, thiếu phương pháp phù hợp để nghiên cứu hiện trạng, thiếu hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn, quy chuẩn làm cơ sở phân tích đánh giá hiện trạng.

Điều kiện để thực hiện nghiên cứu đánh giá hiện trạng tương đối hạn chế, chi phí thấp cho công tác nghiên cứu hiện trạng, thời gian lập quy hoạch bị giới hạn, rút ngắn theo chỉ đạo, thiếu sự hợp tác của các cơ quan liên quan cũng ảnh hưởng tới công tác nghiên cứu đánh giá hiện trạng trong lập quy hoạch đô thị.

Phương nghiên cứu không tốt và năng lực yếu kém của chuyên gia tư vấn làm công tác đánh giá hiện trạng bị xem nhẹ, kết quả nhận định không đúng, dẫn tới các giải pháp đề xuất của quy hoạch không phù hợp và chưa khắc phục được vấn đề hiện trạng cần giải quyết.

Những vấn đề đánh giá hiện trạng được đặt ra tương đối đơn giản theo yêu cầu quy hoạch hiện nay gồm sử dụng đất, kiến trúc cảnh quan, hạ tầng kỹ thuật đề làm cơ sở đề xuất các giải pháp quy hoạch tương ứng. Việc thiếu nghiên cứu bối cảnh kinh tế xã hội dẫn tới xây dựng đô thị thiếu đặc trưng của khu vực, thiếu nghiên cứu hệ sinh thái dẫn tới các tác động tiêu cực tới môi trường, thiếu nghiên cứu kinh tế đô thị dẫn tới không thể xác định được nguồn lực triển khai. Do đó, vấn đề nghiên cứu đánh giá hiện trạng cần phải được xem xét điều chỉnh trong công tác đổi mới phương pháp lập quy hoạch đô thị.

+ Hạn chế trong dự báo phát triển

Công tác dự báo phát triển trong quy hoạch đô thị là yếu kém hiện nay dẫn tới chất lượng các đề xuất giải pháp pháp quy hoạch, làm quy hoạch không phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội, phải thường xuyên thay đổi, điều chỉnh.

Dự báo phát triển được dựa trên các thông tin thống kê hiện trạng, lựa chọn được quá trình phát triển phù hợp, lựa chọn các chỉ tiêu tính toán và lựa chọn phương pháp dự báo phù hợp với quy luật phát triển. Hầu hết các yếu tố nêu trên không được nghiên cứu thấu đáo và thiếu thông tin tại Việt Nam, dẫn tới các kết quả dự báo không phù hợp, không đảm bảo tính khoa học.

Việc lập quy hoạch theo phương pháp tổng thể, chỉ đạo từ trên xuống dưới, dẫn tới vấn đề gì cũng phải dự báo nhưng khá đơn giản, vấn đề chính của quy hoạch đô thị và dự báo về các kịch bản để lựa chọn hình thái đô thị phù hợp, dự báo các quy mô để đưa ra các chỉ tiêu quy hoạch không được nghiên cứu để đưa ra các dự báo cụ thể cho yêu cầu quản lý phát triển đô thị.

Việc tồn tại nhiều hệ thống quy hoạch khác nhau, thực hiện triển khai nghiên cứu ở nhiều giai đoạn khác nhau trên cùng một địa bàn có kết quả dự báo phát triển cho cùng một vấn đề khác nhau, từ đó các đề xuất về quy hoạch sẽ bị mâu thuẫn và không đồng bộ.

Để nâng cao kết quả dự báo phát triển cần phải nghiên cứu ban hành quy định về các phương pháp dự báo thống nhất cho các vấn đề, ban hành hệ thống các chỉ tiêu, định mức, tiêu chuẩn chi tiết làm cơ sở cho dự báo và có cơ quan thẩm tra đánh giá kết quả dự báo để đảm bảo chất lượng của dự báo phát triển.

Hiện nay công tác dự báo chỉ thực hiện cho giai đoạn cuối, giai đoạn tầm nhìn của quy hoạch đô thị. Dự báo phát triển cần phải xác định được lộ trình triển khai, kịch bản triển khai phù hợp làm cơ sở đề xuất các giải pháp quy hoạch chiến lược theo từng bước triển khai thực hiện đô thị.

Mỗi loại hình quy hoạch, tính chất đô thị, cấp độ quy hoạch cần có phương pháp dự báo khác nhau, vấn đề dự báo khác nhau phục vụ cho việc đề xuất và lựa chọn giải pháp quy hoạch.

+ Hạn chế trong đề xuất giải pháp quy hoạch

Những hạn chế của công tác nghiên cứu hiện trạng, dự báo phát triển sẽ tác động đến chất lượng của giải pháp quy hoạch, tính khả thi của quy hoạch không cao, chất lượng của quy hoạch không đảm bảo và không phù hợp với thực tế phát triển đô thị, xảy ra tình trạng quy hoạch treo.

Quá trình lập quy hoạch thiết sự tham gia của cộng đồng, thiếu sự đồng thuận của các bên liên quan, vì vậy các giải pháp quy hoạch đưa ra triển khai trong thực tế gặp sự mâu thuẫn, thiếu sự phối hợp giữa các bên. Nhiều nơi giải pháp quy hoạch phát triển mâu thuẫn với lợi ích cộng đồng địa phương, gây ra các vấn đề xã hội rất phức tạp.

Giải pháp quy hoạch cho giai đoạn cuối, giai đoạn tầm nhìn, còn gọi là quy hoạch một bước, thiếu kế hoạch lộ trình triển khai, không khả thi trong xác định nguồn lực triển khai, quá trình triển khai phát sinh vấn đề làm ảnh hưởng tới giải pháp quy hoạch tổng thể.

+ Hạn chế trong quy hoạch đơn ngành

Quy hoạch đô thị hiện nay, trước đây là quy hoạch xây dựng được định hướng phải nghiên cứu tổng hợp đa ngành để đưa ra quy hoạch không gian vật thể, xây dựng công trình. Tuy nhiên sản phẩm quy hoạch và nội dung nghiên cứu chỉ yêu cầu đề cập tới đối tượng là quy hoạch xây dựng, vì vậy các kết quả đạt được chỉ là các giải về quy hoạch xây dựng, không phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội, mâu thuẫn với các ngành và lĩnh vực.

Trong hệ thống pháp luật hiện nay, quy hoạch đô thị đang được hiểu là quy hoạch chuyên ngành, được thực hiện quy hoạch song song với các quy hoạch chuyên ngành khác được lập bởi hệ thống các chuyên gia tư vấn, cơ quan thẩm định, người phê duyệt khác nhau, dẫn tới sự không thống nhất giữa các quy hoạch và mâu thuẫn trong thực tế triển khai. Nhiều địa phương các quy hoạch chuyên ngành còn không được lập.

Quy hoạch đô thị không nghiên cứu tổng hợp đa ngành làm ảnh hưởng tới công tác tổ chức thực hiện của các ngành. Đặc điểm yếu kém trong phối hợp đa ngành của hệ thống cơ quan hành chính hiện nay cũng là nguyên nhân không đưa được quy hoạch đô thị vào thực tiễn sử dụng.

Yêu cầu tích hợp đa ngành trong quy hoạch đô thị ngày một đặt ra bức thiết, để thực hiện được công tác này cần phải xem xét điều chỉnh lại các quy định pháp luật có liên quan, tổ chức lại bộ máy lập quy hoạch, thực hiện quy hoạch và có quy định cụ thể cho từng loại hình quy hoạch.

+ Phương pháp lập quy hoạch cho đô thị mới

Giai đoạn từ 1996 - 2016, công tác lập quy hoạch đô thị chủ yếu là quy hoạch mở rộng đô thị và quy hoạch xây dựng các khu đô thị mới, với hệ thống phương pháp lập quy hoạch tương đối giống nhau.

Phương pháp lập quy hoạch xây dựng đô thị mới, mở rộng đô thị tập trung vào giải pháp bố trí các chức năng, định hướng các chỉ tiêu về không gian (mật độ xây dựng, tầng cao công trình), giải pháp về hạ tầng kỹ thuật… trên nền tảng hiện trạng các khu vực mở rộng, xây dựng dự án là các khu vực sản xuất nông nghiệp đất trống, giải pháp cải tạo, chỉnh trang hiện trạng hầu như không có.

Giai đoạn hiện nay, yêu cầu về cải tạo chỉnh trang các khu vực đô thị hiện hữu, tái cấu trúc lại đô thị, vấn đề đặt ra riêng biệt cho mỗi một đô thị là khác nhau, phương pháp quy hoạch cho đô thị mới áp dụng không phù hợp, cần có phương pháp tiếp cận mới, sản phầm quy hoạch đô thị phải thay đổi để đáp ứng yêu cầu quản lý thực tiễn.

d. Hạn chế về sản phẩm quy hoạch đô thị:

Sản phẩm quy hoạch gồm thuyết minh, hồ sơ bản vẽ, quy định quản lý, tuy nhiên tính pháp lý và áp dụng chủ yếu là bản đồ quy hoạch sử dụng đất và quyết định phê duyệt của đồ án. Nhiều nội dung nghiên cứu đề xuất của đồ án không được cụ thể hóa và chuyển hóa thành các chế tài, quy định cụ thể.

Sản phẩm quy hoạch thiếu hệ thống các công cụ áp dụng hỗ trợ triển khai trong thực tế như các quy chế, quy chuẩn, tiêu chuẩn chuyên ngành, hệ thống các quy định tại địa phương, hệ thống các chỉ dẫn thiết kế cho các vấn đề cụ thể. Sản phẩm quy hoạch không thể bao quát và chỉ dẫn cho mọi vấn đề.

Hệ thống sản phẩm được quy định tương đối thống nhất theo tầng bậc quy hoạch không phù hợp với thực tế và tương đối cứng nhắc. Phương pháp quy hoạch khác nhau dẫn tới sản phẩm khác nhau; quy mô đô thị khác nhau, vấn đề cần giải quyết khác nhau thì sản phẩm quy hoạch cần phải khác nhau; tùy theo tính chất đô thị sẽ có phương pháp tiếp cận khác nhau và sản phẩm sẽ khác nhau. Như vậy, sản phẩm quy hoạch cần phải điều chỉnh theo phương pháp nghiên cứu, có những nội dung phải được quy định cứng và có những nội dung cần phải có quy định linh hoạt để phù hợp với thực tiễn triển khai phù hợp với vấn đề nghiên cứu và giải pháp quy hoạch được đề xuất lựa chọn.

1.2. Hạn chế trong công tác quản lý phát triển đô thị

Thực trạng phát triển đô thị yếu kém đặt ra rất nhiều yêu cầu thách thức cho công tác quản lý phát triển đô thị đó là: Mô hình phát triển đô thị như thế nào cho phù hợp, công cụ quản lý đô thị cần những gì, năng lực con người trong tham gia quản lý phát triển đô thị, nguồn lực phát triển đô thị, phối hợp đa ngành trong quản lý phát triển đô thị…

+ Mô hình và cách thức phát triển đô thị:

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, chúng ta đang thực hiện nhiều chương trình định hướng phát triển chiến lược như phát triển đô thị hóa, đồng thời phát triển nông thôn mới; chiến lược phát triển kinh tế biển, đồng thời phát triển trung du miền núi, vùng đồng bào dân tộc khó khăn; phát triển công nghiệp hóa, đô thị hiện đại, đồng thời bảo tồn giữ gìn bản sắc dân tộc. Kết quả, chúng ta thấy các đô thị phát triển mở rộng lan tỏa dọc các tuyến đường, hiệu quả sử dụng đất và hạ tầng thấp, môi trường đô thị bị ô nhiễm nghiêm trọng. Các đô thị lớn liên tục được mở rộng, nhưng chậm được lấp đầy so với tiến độ quy hoạch, các đô thị nhỏ không xác định được nguồn lực phát triển.

Đặc điểm đô thị lan tỏa, tự phát theo các dự án khu đô thị, khu dân cư, chúng ta không có biên giới rõ ràng cho các khu vực trung tâm hiện hữu cần bảo tồn, bảo vệ, không rõ khu vực cho phát triển đô thị mới, không rõ khu vực ven đô cần bảo vệ và vùng nông thôn cần hạn chế phát triển. Theo đó hình thành đô thị trộn lẫn với các điểm dân cư nông thôn, từng bước xóa tan các làng xóm truyền thống bằng các điểm dân cư đô thị hóa tự phát với chất lượng hạ tầng thấp kém.

Sau khi có quy hoạch đô thị, thu hút chủ yếu bằng các dự án khu đô thị, hạ tầng khung đô thị chậm được xây dựng theo quy hoạch đã gây ra những quá tải về hạ tầng, chất lượng đô thị và môi trường đô thị.

+ Nguồn lực phát triển đô thị:

Phát triển đô thị hóa nóng, dàn trải, trên cơ sở nền tảng kinh tế đô thị yếu kém, nhu cầu đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng rất lớn, tuy nhiên nguồn lực đầu tư phát triển đô thị yếu kém và không rõ ràng, không có giải pháp huy động phù hợp.

Nguồn lực phát triển đô thị lâu nay dựa trên cơ sở chuyển đổi mục đích sử dụng đất chưa đầu tư cơ sở hạ tầng với giá trị thấp đã được khai thác đến giới hạn. Phần lớn quỹ đất đã được chuyển đổi, giao nhà đầu tư, tuy nhiên vẫn không đủ nguồn lực cho phát triển đô thị, đây cũng là nguyên nhân đô thị hóa đất đai không đồng thời với đô thị hóa dân số.

Hệ thống các đô thị nhỏ được thành lập trên cơ sở các điểm dân cư nông thôn tập trung, chưa có định hướng phát triển rõ ràng về kinh tế - xã hội, nguồn lực tạo ra không nhiều, trong khi đó, nhu cầu nguồn lực cho xây dựng và duy trì hoạt động đô thị rất lớn. Đây là nguyên nhân các đô thị được quy hoạch nhiều nhưng chậm phát triển so với quy hoạch.

Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật cho công tác huy động nguồn lực phát triển đô thị đang còn thiếu và còn nhiều bất cập. Các thủ tục hành chính còn phức tạp và chồng chéo, không rõ ràng… làm cản trở huy động nguồn lực phát triển đô thị.

+ Nhân lực cho công tác quản lý phát triển thị:

Công tác quản lý phát triển đô thị ngày một đa dạng phức tạp, đòi hỏi sự phối hợp đa ngành, tuy nhiên nhân lực phục vụ cho công tác quản lý phát triển đô thị tại địa phương hiện nay rất thiếu và yếu. Cán bộ quản lý phát triển đô thị được đào tạo chuyên môn đơn ngành, thiếu đa ngành, trong bối cảnh công tác quản lý phát triển đô thị đòi hỏi thông tin, chuyên môn ở nhiều tầng bậc, từ tổng thể đến chi tiết… đã không đáp ứng được yêu cầu quản lý phát triển.

Hệ thống quản lý đô thị theo tầng bậc, trong cùng một đô thị có sự tham gia quản lý và đầu tư phát triển của trung ương, tỉnh và đô thị, do đó còn thiếu sự khớp nối và phù hợp của các dự án trong quá trình phát triển đô thị.

+ Công cụ và thể chế cho quản lý phát triển đô thị:

Hệ thống công cụ và thể chế phục vụ cho công tác quản lý phát triển đô thị đang thiếu và rất nhiều bất cập. Vấn đề này đã được Quốc hội, Chính phủ, Bộ Xây dựng nhìn nhận và thúc đẩy xây dựng Luật Quản lý phát triển đô thị.

Nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị đáp ứng yêu cầu xây dựng, quản lý phát triển đô thị bền vững

2. Quan điểm, xu hướng đổi mới công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị

2.1. Đổi mới lý luận về phương pháp quy hoạch và quản lý phát triển đô thị

Yêu cầu đổi mới công tác lập quy hoạch và quản lý phát triển đô thị đã được đặt ra, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Xây dựng phối hợp với các viện nghiên cứu, chuyên gia quy hoạch nghiên cứu về đổi mới phương pháp luận về công tác lập quy hoạch và quản lý phát triển đô thị để phù hợp với bối cảnh phát triển tại Việt Nam.

Phương pháp luận cần phải bắt đầu từ đổi mới mô hình phát triển kinh tế xã hội, phương thức quản lý phát triển kinh tế xã hội, từ đó lựa chọn mô hình phát triển đô thị phù hợp theo từng giai đoạn, từng đô thị và bối cảnh phát triển cụ thể.

Bài học kinh nghiệm trên thế giới cho thấy mục tiêu phát triển đô thị hướng tới sự bền vững về môi trường, kinh tế, xã hội, giữ gìn bản sắc trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, tiến tới mô hình xã hội thông minh.

2.2. Đổi mới công tác lập quy hoạch đô thị

a. Nguyên tắc chung đổi mới công tác lập quy hoạch đô thị

Từ thực tiễn phát triển đến bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy không có phương pháp quy hoạch nào đúng cho tất cả các cấp bậc của quy hoạch và cho tất cả các đô thị. Phương pháp quy hoạch cần dựa trên bối cảnh phát triển kinh tế xã hội chung của đất nước, nền tảng thể chế và bộ máy tổ chức để có đề xuất vận hành phù hợp. Nguyên tắc chung cho công tác đổi mới lập quy hoạch đô thị như sau:

- Đổi mới công tác quy hoạch hướng tới kiến tạo, tinh giản thủ tục hành chính, hướng tới một bản quy hoạch duy nhất cho một đô thị;

- Khai thác các ưu điểm của các phương pháp quy hoạch khác nhau để khắc phục các tồn tại của công tác lập quy hoạch đô thị hiện nay;

- Khắc phục trực tiếp các tồn tại của công tác quy hoạch đô thị hiện nay, để phục vụ cho công tác quản lý phát triển đô thị;

- Mô hình đô thị hóa đồng bộ, hiện đại, văn hóa, sinh thái, tạo lập đặc trưng và bản sắc đô thị, bảo tồn các giá trị hiện có của từng đô thị;

- Quy hoạch thông minh, chuẩn bị nền tảng cho ứng dụng công nghệ thông tin hướng tới mô hình đô thị thông minh. Sử dụng công nghệ thông tin để xây dựng cơ sở dữ liệu, nghiên cứu giải pháp quy hoạch, xây dựng đô thị theo quy hoạch và hỗ trợ hoạt động phát triển đô thị.

b. Đổi mới phương pháp tiếp cận

Áp dụng tổng hợp các phương pháp lập quy hoạch để nâng cao chất lượng của quá trình lập quy hoạch, khắc phục hạn chế trong từng bước lập quy hoạch, thực hiện quy hoạch hiện nay. Trên cơ sở thay đổi phương pháp lập quy hoạch sẽ điều chỉnh sản phẩm quy hoạch, kết quả quy hoạch và điều chỉnh quá trình thực hiện quy hoạch.

- Phương pháp quy hoạch tổng thể/tầng bậc/cấu trúc;

- Phương pháp quy hoạch chiến lược, cấu trúc chiến lược;

- Phương pháp quy hoạch tích hợp, lồng ghép đa ngành;

- Phương pháp quy hoạch với sự tham gia;

- Phương pháp quy hoạch hành động;

- Các phương pháp lồng ghép khác.

Phương pháp tiếp cận mới cần được định hướng mở, tạo sự linh hoạt để quản lý những vấn đề về tổng thể, về quy chuẩn, về an ninh quốc phòng, đảm bảo yêu cầu công bằng xã hội… được quản lý chhung bằng hệ thống quy định pháp luật về quy hoạch đô thị thông qua sản phẩm quy hoạch, những vấn đề khác sẽ được mở, tạo linh hoạt cho từng đô thị và từng vấn đề được nghiên cứu.

Quy hoạch đô thị được hiểu là quá trình lặp lại gồm các bước: Lập quy hoạch - Xây dựng theo quy hoạch - Quản lý theo quy hoạch - Điều chỉnh quy hoạch. Với quá trình này sẽ đảm bảo quy hoạch được thực hiện liên tục, quan tâm nhiều tới giải pháp để thực hiện quy hoạch.

Các phương pháp lập quy hoạch cần được đưa vào quy định pháp luật, các văn bản hướng dẫn làm cơ sở cho các cơ quan liên quan phối hợp thực hiện trong quá trình triển khai lập quy hoạch và quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch được duyệt.

Căn cứ vào cấp độ quy hoạch, quy mô đô thị và tính chất của khu vực quy hoạch để lựa chọn phương pháp tiếp cận chủ đạo nhằm xác định các vấn đề cần giải quyết và lựa chọn giải pháp quy hoạch phù hợp với yêu cầu phát triển.

Các giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của từng đô thị có yêu cầu khác nhau về việc phát triển không gian vật thể, xây dựng cơ sở hạ tầng tương ứng, từ đó lựa chọn phương pháp tiếp cận phù hợp để đưa ra sản phẩm quy hoạch đáp ứng yêu cầu phát triển của đô thị theo từng giai đoạn khác nhau.

Để khắc phục tình trạng nhiều bước làm quy hoạch, làm chậm đưa giải pháp quy hoạch vào thực tế, làm chậm tiến trình đầu tư xây dựng đô thị so với nhịp độ phát triển kinh tế xã hội.

Việc lồng ghép các công đoạn của công tác lập quy hoạch chung và quy hoạch phân khu để đưa ra các giải pháp quy hoạch tương đối cụ thể phục vụ quản lý hoạt động xây dựng, lồng ghép chương trình phát triển đô thị vào quy hoạch chung để xác được kế hoạch phát triển đô thị và nguồn lực thực hiện. Nội dung cụ thể hóa được lựa chọn theo từng đô thị như sử dụng đất, giao thông, tầng cao, chỉ giới… Căn cứ vào quá trình phát triển đô thị có thể đưa thêm các hệ thống chỉ dẫn mới trên nền tảng quy hoạch đã được phê duyệt như: cây xanh, giao thông công cộng, không gian mở, trang thiết bị đô thị.

Rút gọn các bước làm quy hoạch phải gắn với thực hiện lập quy hoạch đô thị được thực hiện cẩn thận, bài bản, đảm bảo các chiến lược đưa ra phù hợp với thực tiễn áp dụng dài hạn, tạo nên bộ luật cho đô thị, hạn chế tối đa việc điều chỉnh, thay đổi hoàn toàn nội dung lập quy hoạch. Thời gian nghiên cứu lập đồ án quy hoạch chung có thể lâu, nhưng giảm bước lập quy hoạch sẽ rút ngắn được thời gian triển khai từ quy hoạch chung đến thực tế.

Rút ngắn thời gian lập quy hoạch còn được thực hiện thông qua quy trình được quy định rõ ràng, quy định cụ thể trách nhiệm của các bên liên quan trong công tác lập quy hoạch, thực hiện quy hoạch và giám sát quy hoạch, tạo sự phối hợp nhịp nhàng, không bị kéo dài do các thủ tục hành chính.

c. Đổi mới quy trình lập quy hoạch

Quy trình các bước linh hoạt theo từng đô thị: Thực hiện phương pháp lồng ghép, căn cứ vào vấn đề cần giải quyết của từng đô thị, yêu cầu của mỗi đô thị để xây dựng quy trình các bước lập quy hoạch để giải quyết vấn đề đặt ra. Như vậy, quy trình các bước triển khai lập quy hoạch sẽ khác nhau theo từng đô thị gắn với phương pháp triển khai của đơn vị tư vấn được lựa chọn. Quy định pháp luật cần quy định các bước chính phải thực hiện và quy trình thẩm định cuối cùng đối với sản phẩm quy hoạch cuối cùng của đồ án để đảm bảo chất lượng chung.

Quy trình các bước mở và bổ sung để tạo điều kiện tham gia đầy đủ của các bên liên quan như: tham vấn chuyên gia, lấy ý kiến cộng đồng. Quy trình quy hoạch có sự tham gia sẽ giúp cho việc lựa chọn giải pháp quy hoạch phù hợp với cộng đồng, nâng cao khả năng giám sát quy hoạch.

Quy trình lập và thực hiện quy hoạch phù hợp với bối cảnh xã hội và thể chế, chính quyền đô thị theo từng giai đoạn Đổi mới phương pháp luận quy hoạch đô thị cần phải dựa trên hệ thống pháp luật hiện hành, tính khả thi và đồng bộ với hệ thống pháp luật có liên quan, hệ thống thể chế hiện có để đảm bảo khả thi trong áp dụng quy hoạch và là cơ sở quan trọng để thực hiên quy hoạch.

d. Đổi mới nội dung quy hoạch đô thị

Thay đổi các nội dung quy định cứng nhắc trên cơ sở các giải pháp chiến lược và các quy định linh hoạt để phù hợp với sự thay đổi phát triển của xã hội đô thị hiện nay và trong tương lai.

Quy hoạch theo tầm nhìn dài hạn, có các giải pháp chiến lược thực hiện quy hoạch theo từng giai đoạn, đảm bảo tính khả thi trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội của từng đô thị. Xác định các giải pháp chiến lược để sớm hình thành đô thị theo quy hoạch được duyệt.

Vấn đề của quy hoạch được nghiên cứu mở rộng, giải pháp quy hoạch không gian vật thể được nghiên cứu lựa chọn trên nền tảng các nghiên cứu phân tích về kinh tế đô thị, về văn hóa xã hội, dự báo chính xác các kịch bản phát triển, định hướng bảo vệ môi trường và mục tiêu phát triển xã hội để lựa chọn giải pháp và đưa ra những quy định phù hợp. Trong điều kiện kịch bản phát triển không đúng với kế hoạch, cần có kế hoạch dự phòng và điều chỉnh phù hợp để hạn chế các tác động tiêu cực của quy hoạch đối với phát triển kinh tế xã hội.

Căn cứ vào nội dung nghiên cứu quy hoạch cụ thể, chi tiết theo từng vấn đề để đưa ra các quy định chặt chẽ, bắt buộc đối với các nội dung cần bảo vệ của mỗi đô thị như: giá trị di sản, môi trường sinh thái, văn hóa cộng đồng, các giá trị hướng tới đặc trưng đô thị. Đối với các vấn đề chưa được nghiên cứu cụ thể cần quy định linh hoạt, quy định mở tạo thuận lợi cho các bước triển khai tiếp theo, tránh các quy định cứng nhắc.

e. Đổi mới sản phẩm quy hoạch đô thị

Khắc phục tình trạng các nội dung quy hoạch chung chung, có nhiều cách hiểu khác nhau, dẫn tới cách vận dụng thực hiện khác nhau, sản phẩm quy hoạch hướng tới các nội dung quy định tương đối cụ thể thông qua các sản phẩm quy hoạch là bản vẽ, thuyết minh, quy định, chỉ dẫn… tạo ra các công cụ cụ thể, rõ ràng để các bên cùng biết và cùng giám sát thực hiện quy hoạch.

Sản phẩm quy hoạch cần có nhiều loại hình thể hiện, nhiều tỷ lệ bản đồ, tiến tới cụ thể các giải pháp quy hoạch, không giữ mỗi đồ án quy hoạch theo một bản đồ như hiện nay. Quy hoạch chung đô thị cần có các nội dung được quy định cụ thể hóa ở mức độ bản đồ tỷ lệ 1/2000, làm công cụ cho quản lý ở bước tiếp theo.

Tăng cường loại hình sản phẩm là quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc đô thị để có các hướng dẫn thực hiện cụ thể, dễ hiểu cho mọi đối tượng, người dân đô thị có thể biết để thực hiện và giám sát quy hoạch được dễ dàng, không khó hiểu như các bản đồ mang nặng tính kỹ thuật như hiện nay. Quy chế quản lý quy hoạch được quản lý đồng thời với các sản phẩm khác của quy hoạch và các quy định pháp luật có liên quan về hoạt động xây dựng để hỗ trợ cho công tác quản lý phát triển đô thị. Quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc được phát hành rộng rãi, thông tin minh bạch, kết hợp với ứng dụng công nghệ thông tin để tạo điều kiện tiếp cận dễ dàng cho người dân.

Quy định pháp luật cần quy định cụ thể đối với sản phẩm quy hoạch cuối cùng để áp dụng vào quản lý xã hội, quản lý mở đối với sản phẩm trong quá trình thực hiện lập quy hoạch sẽ tạo điều kiện cho áp dụng các phương pháp quy hoạch khác nhau trong nghiên cứu quy hoạch, phù hợp với yêu cầu đặc thù của từng đô thị.

Để hỗ trợ cho sản phẩm quy hoạch được thực hiện đầy đủ, chính quyền đô thị cần phải ban hành hệ thống các quy định quản lý, chỉ dẫn thiết kế cho các nhóm đối tượng đặc thù hoặc phổ biến trong từng đô thị để có những nguyên tắc chung như: nhà ở riêng lẻ, nhà chung cư, nhà mặt phố, biển hiệu - biển báo, quảng cáo, trang thiết bị đô thị … hướng tới tạo đặc trưng riêng cho từng đô thị.

2.3. Quy hoạch theo hướng tích hợp đa ngành

Công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị theo hướng tích hợp đa ngành đã được đặt ra từ lâu, phần nào đã được thực hiện trong các đồ án quy hoạch xây dựng đô thị đã được ngành xây dựng lập, phê duyệt và quản lý trong giai đoạn vừa qua. Hiện nay, sau khi Luật Quy hoạch có hiệu lực từ 01/01/2019, công tác quy hoạch theo hướng tích hợp đa ngành được đặt ra có tính bắt buộc và phải đi vào chiều sâu, theo đó:

- Đa ngành cùng nghiên cứu, quyết định lựa chọn lựa chọn giải pháp quy hoạch;

- Phối hợp đa ngành trong xây dựng phát triển đô thị theo quy hoạch được duyệt;

- Phối hợp đa ngành quản lý, giám sát công tác phát triển đô thị.

Sự phối hợp đa ngành đòi hỏi phải có sự thay đổi của tổ chức bộ máy quản lý phát triển đô thị, bổ sung hệ thống cơ chế chính sách vận hành, phân rõ nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền lợi các bên liên quan.

Đối với công tác quy hoạch, theo từng cấp loại quy hoạch cần phải có điều chỉnh nội dung nghiên cứu, quy trình thực hiện và hồ sơ sản phẩm của đồ án quy hoạch để đáp ứng yêu cầu tích hợp đa ngành.

2.4. Quy hoạch theo mô hình đô thị thông minh

Đề án Phát triển đô thị thông minh (ĐTTM) bền vững Việt Nam giai đoạn 2018 - 2025 và định hướng đến năm 2030, đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 950/QĐ-TTg Ngày 01/8/2018. Mục tiêu của đề án là phát triển ĐTTM bền vững ở Việt Nam hướng tới tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, khai thác, phát huy các tiềm năng và lợi thế, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực; Khai thác tối ưu hiệu quả tài nguyên, con người, nâng cao chất lượng cuộc sống, đồng thời đảm bảo tạo điều kiện đối với các tổ chức, cá nhân, người dân tham gia hiệu quả nghiên cứu, đầu tư xây dựng, quản lý phát triển ĐTTM; Hạn chế các rủi ro và nguy cơ tiềm năng; Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước và các dịch vụ đô thị; Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, hội nhập quốc tế.

Mục tiêu cụ thể, giai đoạn đến năm 2020, xây dựng nền tảng cơ sở pháp lý phát triển ĐTTM, tiến hành công tác chuẩn bị đầu tư triển khai thí điểm ở cấp khu đô thị và đô thị. Giai đoạn đến năm 2025, thực hiện giai đoạn 1 thí điểm phát triển ĐTTM, bao gồm xây dựng, hoàn thiện hành lang pháp lý, các quy định quy phạm pháp luật trên cơ sở sơ kết, tổng kết việc thực hiện thí điểm; Triển khai áp dụng khung tham chiếu ICT phát triển ĐTTM tại Việt Nam. Định hướng đến năm 2030, hoàn thành thí điểm giai đoạn 1, từng bước triển khai nhân rộng theo lĩnh vực, khu vực, hình thành mạng lưới liên kết các ĐTTM, có khả năng lan tỏa. Đề án cũng đề ra 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp:

1. Rà soát, hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách, định mức kinh tế kỹ thuật và ban hành các hướng dẫn về phát triển ĐTTM bền vững.

2. Từng bước hình thành và hoàn thiện hệ thống các quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia về lĩnh vực ĐTTM, thúc đẩy nghiên cứu khoa học cơ bản và nghiên cứu ứng dụng ĐTTM bền vững.

3. Hình thành, kết nối liên thông, duy trì và vận hành hệ thống dữ liệu không gian đô thị số hóa và cơ sở dữ liệu đô thị quốc gia;

4. Đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông minh trong quy hoạch và quản lý phát triển đô thị.;

5. Phát triển hạ tầng đô thị thông minh;

6. Phát triển các tiện ích thông minh cho dân cư đô thị.

7. Xây dựng tiềm lực phát triển ĐTTM bền vững (bao gồm, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực; Phát triển nghiên cứu, chế tạo, ứng dụng khoa học công nghệ ĐTTM);

8. Tăng cường huy động các nguồn vốn đầu tư, hỗ trợ kỹ thuật trong và ngoài nước;

9. Tích cực thúc đẩy hợp tác quốc tế, trao đổi chuyển giao công nghệ về phát triển ĐTTM bền vững;

10. Tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức về đô thị thông minh.

Trong phát triển hạ tầng kỹ thuật ĐTTM, trước mắt ưu tiên tập trung đầu tư các lĩnh vực: Phát triển chiếu sáng đô thị thông minh; Phát triển giao thông thông minh, hệ thống điều khiển hướng dẫn cho người tham gia giao thông, chỉ huy kiểm soát và xử lý ứng cứu tình huống khẩn cấp; Phát triển hệ thống cấp thoát nước thông minh, đảm bảo khả năng kiểm soát, xử lý ô nhiễm và an toàn chất lượng; Phát triển hệ thống thu gom và xử lý rác thải đô thị thông minh; Phát triển lưới điện thông minh; Phát triển hệ thống cảnh báo rủi ro, thiên tai.

Lời kết

Đô thị là vỏ vật chất tạo môi trường hoạt động, phản ánh hoạt động kinh tế - xã hội. Phát triển đô thị theo mô hình ĐTTM cần phải bắt đầu tư giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội, hoạt động của từng đô thị. Lựa chọn giải pháp đô thị hóa sáng tạo phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng đô thị, kết hợp với ứng dụng các công nghệ thông minh trong đổi mới công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị cần được áp dụng hướng tới sự phát triển sáng tạo và bền vững.

Từ yêu cầu thực tiễn phát triển đô thị của Việt Nam, bài học kinh nghiệm phát triển đô thị trên thế giới và việc thay đổi hệ thống các quy định pháp luật liên quan tới công tác quy hoạch phát triển đô thị là những cơ sở quan trọng và cần thiết cho đổi mới phương pháp lập quy hoạch đô thị tại Việt Nam.

Phương pháp lập quy hoạch đang ngày một phát triển cho thấy không có một phương pháp đúng đắn, duy nhất. Phương pháp quy hoạch đô thị cần phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển của từng đô thị, tính chất đô thị, cấp độ quy hoạch, vấn đề cần giải quyết của mỗi đô thị và đặt trong bối cảnh thể chế, trình độ phát triển xã hội của từng giai đoạn.

Đổi mới phương pháp lập quy hoạch đô thị phải dựa trên những quy luật của tự nhiên, quy luật của xã hội, quy luật của thị trường tự do, quy luật của thị trường bất động sản, thích ứng với biến đổi khí hậu, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và ứng dụng các thành quả của cuộc công nghiệp 4.0 để xây dựng đô thị thông minh, song hành với đó là bảo tồn, gìn giữ và phát triển những giá trị hiện có của mỗi đô thị.

ThS.KTS Nguyễn Hoàng Phương
Giám đốc Trung tâm Kiến trúc quy hoạch Hà Nội, Viện Quy hoạch đô thị và nông thôn quốc gia (Bộ Xây dựng)

Bạn đang đọc bài viết Nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị đáp ứng yêu cầu xây dựng, quản lý phát triển đô thị bền vững. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0912 345 014 Hoặc email: [email protected]

Theo tapchixaydung.vn

Cùng chuyên mục

Michelin Guide vinh danh khu nghỉ dưỡng Regent Phu Quoc
Michelin Guide vừa giới thiệu danh sách 11 khách sạn giữa thiên nhiên ấn tượng nhất châu Á. Khu nghỉ dưỡng Regent Phu Quoc thuộc khu phức hợp nghỉ dưỡng – giải trí Phu Quoc Marina vinh dự là đại diện Việt Nam duy nhất góp mặt trong danh sách này.

Tin mới

Bài thơ: Giấc mơ Hồng
Đêm qua, em có giấc mơ hồng///Được gặp anh ở cuối trời Tây///Vẫn dõi theo từng hơi thở, từng bước đi///Gửi đến bao tình thương và nỗi nhớ
Bài thơ: Chút tương tư
Thả câu thơ đêm muộn màng///Ngọn đèn bên phố trôi ngang bềnh bồng //Đêm gầy uống cạn dòng sông//Buồn ơi! Xuân hết mà đông chưa tàn.