Thứ bảy, 12/10/2024 22:09 (GMT+7)

Phát triển khu công nghiệp xanh tại Việt Nam gắn với xu hướng triển khai của doanh nghiệp

MTĐT -  Thứ hai, 15/07/2024 08:33 (GMT+7)

Theo dõi MTĐT trên

Mô hình khu công nghiệp xanh được coi là giải pháp không chỉ khắc phục được những hạn chế, bất cập về vấn đề môi trường, giảm chất thải, giảm lãng phí tài nguyên, giảm thiểu rủi ro, mà còn thúc đẩy tăng trưởng bền vững, tăng khả năng cạnh tranh.

Việt Nam có định hướng phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế carbon thấp, kinh tế số… cùng với đó là những tác động mạnh mẽ từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Mô hình khu công nghiệp (KCN) xanh được coi là giải pháp không chỉ khắc phục được những hạn chế, bất cập về vấn đề môi trường, giảm chất thải, giảm lãng phí tài nguyên, giảm thiểu rủi ro, mà còn thúc đẩy tăng trưởng bền vững, tăng khả năng cạnh tranh. Các lợi ích kinh tế, xã hội, môi trường thu được từ KCN xanh là đáng kể, đa dạng và vượt xa cách làm thông thường.

Phát triển KCN xanh là cần thiết và hợp xu thế chung

Nghiên cứu phát triển KCN theo hướng xanh là việc làm rất cần thiết góp phần không nhỏ để có thể đạt được các mục tiêu chiến lược quốc gia cũng như những cam kết của Việt Nam với quốc tế trong các vấn đề ứng phó biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

Theo định hướng Quy hoạch Quốc gia, đến năm 2030 cả nước sẽ có khoảng 575 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 210,93 nghìn ha (tăng gần gấp 2 lần so với hiện nay).

Mục tiêu phát triển công nghiệp quốc gia là phát triển các ngành công nghiệp xanh, gắn với mô hình kinh tế tuần hoàn, sản xuất sạch hơn, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, năng lượng; phát triển các KCN sinh thái và giảm dần các KCN, cụm công nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao.

Trong bối cảnh thế giới và Chính phủ Việt Nam đang đặt ra và theo đuổi các mục tiêu bảo vệ môi trường, phát triển bền vững, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn…, khái niệm KCN xanh đang dần trở nên phổ biến trong các bài báo, đề tài nghiên cứu, văn bản điều hành cũng như ý tưởng phát triển tại một số dự án trong nước.

Theo đó, tại Việt Nam, các tiêu chí về KCN sinh thái lần đầu được quy định tại Điều 42 Nghị định 82/2018/NĐ-CP, Nghị định 35/2022/NĐ-CP tiếp tục kế thừa bổ sung quy định chi tiết, cụ thể các tiêu chí cho từng đối tượng, chủ thể.

Phát triển khu công nghiệp xanh tại Việt Nam gắn với xu hướng triển khai của doanh nghiệp
Dây chuyền phủ kính tiết kiệm năng lượng của Viglacera chinh phục xu hướng Net Zero của Viglacera

Việc triển khai hạ tầng KCN xanh được đánh giá sẽ đem lại ba nhóm lợi ích cơ bản, gồm có:

Thứ nhất, bảo vệ môi trường: KCN xanh rất khác biệt so với các KCN thông thường. Các KCN xanh được xây dựng theo cách tiết kiệm chi phí và thân thiện với môi trường. Cụ thể là, tạo ra nhiều mảng xanh và sử dụng các vật liệu có thể tái chế, sử dụng các nguồn năng lượng sẵn có (mặt trời, nước, gió), phát triển hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác... Nâng cao khả năng thu gom và xử lý rác thải so với trước đây thông qua việc sử dụng công nghệ mới.

Tận dụng nước thải qua xử lý tập trung có thể được sử dụng cho các hoạt động hàng ngày (tưới nước, làm sạch đường). Các hoạt động sản xuất có giải pháp giảm lượng khí thải, góp phần đáng kể vào việc bảo vệ môi trường xung quanh và giảm bớt hậu quả gây biến đổi khí hậu.

Thứ hai, thúc đẩy tăng trưởng kinh doanh: Mô hình KCN xanh giúp các doanh nghiệp thu lợi nhiều về kinh tế. Từ việc tối ưu hóa việc sử dụng nguyên liệu thô và rút ngắn quy trình sản xuất và phân phối có thể giúp giảm chi phí sản xuất giúp giảm giá thành sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.

Mặt khác, hướng sản xuất sạch hơn và vận hành bền vững theo tiêu chuẩn công nghiệp xanh giúp tạo điều kiện phát triển kinh doanh không chỉ ở môi trường trong nước mà vươn ra thế giới.

Thứ ba, cải thiện chất lượng môi trường sản xuất và bảo vệ sức khỏe người lao động: KCN xanh với diện cây xanh lớn, nhà xưởng được quy hoạch theo hướng tối ưu phù hợp với ngành nghề… giúp tạo ra môi trường sản xuất xanh - sạch - đẹp đảm bảo chất lượng sản phẩm và sức khỏe người lao động.

Với thương hiệu KCN xanh giá trị, sản phảm của doanh nghiệp sẽ được nâng tầm và chiếm được lòng tin của khách hàng và đối tác.

Có thể nói, thách thức lớn nhất hiện nay là hệ thống pháp luật liên quan đến KCN xanh, sinh thái vẫn chưa đầy đủ, đồng bộ. Các yêu cầu về KCN xanh - thông minh đang được qui định rải rác trong nhiều bộ luật, quy định nên việc thực hiện còn phức tạp và khó khăn.

Đặc biệt, quy chuẩn hướng dẫn về tuần hoàn, tái sử dụng chất thải còn chưa rõ ràng, thiếu thống nhất hay các quy định về chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông minh trong quản lý, sản xuất cho lĩnh vực này chưa có khiến việc áp dụng thực tế hiện nay còn mang tính tự phát, phụ thuộc nhiều vào khả năng cũng nhu cầu riêng của doanh nghiệp.

Thực tế, việc thu hút đầu tư và khai thác quỹ đất công nghiệp hiện có là chưa hiệu quả. Qua những số liệu thực tiễn có thể nhận thấy việc xác định quỹ đất phát triển công nghiệp còn thiếu khoa học, chưa phù hợp với tiềm năng, xu thế phát triển công nghệ, nhu cầu thực tế của các ngành công nghiệp… Nhiều quy hoạch phát công nghiệp ở các địa phương còn được tính toán khá duy ý chí và định tính mà không dựa trên mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương, mục tiêu phát triển ngành.

Môi trường kinh doanh toàn cầu đang chuyển hướng về phát triển KCN sinh thái, xanh, nhưng nhiều quy hoạch phát triển KCN tại các địa phương vẫn giữ nguyên cấu trúc truyền thống chưa được cập nhật, không theo kịp xu thế phát triển của thế giới, không tích hợp được các tiêu chí, tiêu chuẩn mới.

Việt Nam đã cam kết tham gia vào các thỏa thuận, chương trình, mục tiêu phát triển toàn cầu về bảo vệ môi trường như Net-zero, bảo vệ tài nguyên… nhưng những mục tiêu này chưa được coi trọng và lồng ghép vào trong các quy hoạch phát triển KCN hiện nay.

Việt Nam đang ở cửa ngõ phát triển và có tiềm năng lớn hơn trên bản đồ thế giới. Ngành công nghiệp Việt Nam đi sau cần rút ra bài học kinh nghiệm từ các nước trong khu vực và trên thế giới như coi yếu tố “xanh” là điều kiện cần để phát triển. Đồng thời, chuyển dịch, ưu tiên đầu tư vào lĩnh vực chế tạo sản xuất - công nghệ cao "sạch" hơn là những ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao. Tận dụng các nguồn năng lượng tái tạo và thay thế như năng lượng gió và năng lượng mặt trời mà đang được Chính phủ khuyến khích đầu tư và sử dụng.

Dòng vốn đầu tư nước ngoài chất lượng cao đóng vai trò rất quan trọng trong việc xanh hóa nền kinh tế của đất nước. Mặt khác, xu hướng tiêu dùng của các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới hiện nay đã thay đổi, họ không chỉ quan tâm đến mẫu mã, chất lượng sản phẩm mà còn quan tâm đến các sản phẩm thân thiện với môi trường.

Do đó, phát triển các ngành công nghiệp xanh cũng trở thành yếu tố quan trọng để Việt Nam thu hút cạnh tranh đầu tư.

Nhiều nhà đầu tư đang thực hiện KCN theo cách phân khu bán nền để tận dụng tối đa quỹ đất và thu hút nhiều nhà đầu tư nhất có thể. Nhưng thực tế lại cho thấy các nhà đầu tư FDI lớn, đặc biệt là những doanh nghiệp hướng đến mục tiêu xanh, đang đặt ra yêu cầu cao về tiêu chí môi trường, công nghệ và hạ tầng xã hội trong quá trình đầu tư.

Điều này thể hiện mong muốn của họ đầu tư vào các KCN không chỉ với mục tiêu thuận lợi về vị trí địa lý và quy mô, mà còn là khả năng đáp ứng được các tiêu chí xanh và thông minh thể hiện qua việc sử dụng các công nghệ tiên tiến như tự động hóa, quản lý năng lượng thông minh, chuẩn mực bảo vệ môi trường cao và coi trọng người lao động.

Để giúp nâng cao hiệu quả sản xuất và quản lý, việc thu thập và thiết lập thành một hệ thống cơ sở dữ liệu về khối lượng phát thải, tình trạng ô nhiễm môi trường, tiêu thụ năng lượng… là vô cùng cần thiết nhưng hầu hết các KCN tại Việt Nam hiện nay đều chưa có một hệ thống thu thập, đo lường, phân tích và quản lý dữ liệu hoàn chỉnh.

Được biết, tháng 11/2021, tại hội nghị COP26, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã có bài phát biểu khẳng định quyết tâm thực hiện cam kết Việt Nam cùng 150 quốc gia trên thế giới, sẽ đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050, giảm 30% lượng phát thải khí metan gây hiệu ứng nhà kính vào năm 2030. Do đó, phát triển các KCN xanh chính là hành động để hướng đến mục tiêu Net-zero Carbon thông qua các hoạt động nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm tiêu thụ năng lượng và phát triển các không gian xanh của KCN.

Sự chuyển dịch của các dòng vốn FDI, sự tái cấu trúc thu hẹp chuỗi giá trị toàn cầu, mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và kinh tế số… đang có tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến định hướng phát triển công nghiệp của Việt Nam.

Sự chuyển dịch này mang đến những cơ hội như tiếp nhận được những công nghệ mới hiện đại, quy trình sản xuất hiệu quả giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; tạo ra nhiều việc làm; nâng cao chuỗi giá trị… Nhưng đi kèm với đó là những thách thức trong việc hoàn thiện kết cấu hạ tầng, hoàn thiện thể chế chính sách thu hút đầu tư, chất lượng nhân lực, kiểm soát môi trường…

Mô hình KCN xanh được coi là giải pháp không chỉ khắc phục được những hạn chế, bất cập về vấn đề môi trường, giảm chất thải, giảm lãng phí tài nguyên, giảm thiểu rủi ro, mà còn thúc đẩy tăng trưởng bền vững, tăng khả năng cạnh tranh.

Các lợi ích kinh tế, xã hội, môi trường thu được từ KCN xanh là đáng kể, đa dạng và vượt xa các lợi ích kinh doanh thông thường. Để đầu tư xây dựng thành công KCN xanh, cần phải định hướng ngay từ bước đầu triển khai công tác lập quy hoạch, đặc biệt là bước quy hoạch tổng mặt bằng sử dụng đất cũng cần phải bám sát theo định hướng mô hình KCNST, đảm bảo các tiêu chí sử dụng đất.

Để thực hiện các KCN xanh, vai trò then chốt nằm ở hệ thống chính sách. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý, các tổ chức nghiên cứu và doanh nghiệp là tiền đề để có được các KCN xanh trong tương lai.

Những định hướng của Việt Nam về kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế carbon thấp, kinh tế số, cách mạng công nghiệp lần thứ 4… đang là cơ sở vững vàng cho phát triển KCN xanh.

Mục tiêu chiến lược quốc gia cũng như những cam kết của Việt Nam với quốc tế trong các vấn đề ứng phó biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững sẽ là động lực mạnh mẽ của phát triển Hạ tầng công nghiệp xanh tại Việt Nam trong thời gian tới.

Viglacera dồn lực phát triểnKCNxanh, thông minh

Viglacera được biết đến là nhà phát triển KCN uy tín hàng đầu tại Việt Nam với hơn 20 năm kinh nghiệm và thu hút thành công những “đại bàng” công nghệ trên thế giới như Samsung, Amkor, Foxconn, Qisda,... Không dừng lại ở những tiêu chuẩn khắt khe hiện có, Viglacera tiếp tục nâng tầm các KCN lên một vị thế mới khi đi đầu trong phát triển KCN xanh, thông minh để thu hút các dự án xanh.

Trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng, Viglacera đã tiên phong ứng dụng công nghệ xanh trong các sản phẩm vật liệu, giúp giảm phát thải carbon, tiết kiệm năng lượng. Tiếp nối, Viglacera một lần nữa dẫn đầu thị trường khi hướng tới thiết lập các KCN sinh thái, từng bước góp phần thu nhỏ “dấu chân carbon”. Hành trình này khởi đầu với dự án KCN xanh, thông minh đầu tiên tại tỉnh Bắc Ninh – Thuan Thanh Eco-Smart IP.

Ngay trong những ngày đầu xuân năm 2024, Tổng công ty Viglacera - CTCP chính thức công bố KCN Xanh và Thông minh “Thuan Thanh Eco-Smart IP” tại thị xã Thuận Thành (tỉnh Bắc Ninh).

Phát triển khu công nghiệp xanh tại Việt Nam gắn với xu hướng triển khai của doanh nghiệp
Hình ảnh KCN xanh, thông minh Thuan Thanh Eco-Smart IP

Có thể thấy, Thuan Thanh Eco-Smart IP đánh dấu sự thay đổi đáng kể của doanh nghiệp qua việc chuyển đổi để có thể phát triển bền vững hơn, bắt nhịp xu hướng phát triển xanh của các ngành sản xuất.

Tại Thuan Thanh Eco-Smart IP, doanh nghiệp sẽ tái sử dụng nước thải làm nước tưới cây, cũng như tái sử dụng bùn thải không nguy hại. KCN ứng dụng hệ thống chiếu sáng thông minh, sử dụng pin năng lượng mặt trời tập trung, tối ưu hóa năng lượng tái tạo, hạn chế năng lượng sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Theo tính toán, các giải pháp xanh hóa sẽ giúp hấp thụ tối thiểu hơn 2.000 tấn carbon/năm trong những năm đầu, tương đương mức phát thải của gần 500 ô tô chạy xăng hàng năm.

Xuất phát từ “luật chơi” mới về thương mại, đầu tư toàn cầu được xác lập kể từ sau Hội nghị lần thứ 26 của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26) và cam kết của Chính Phủ Việt Nam đưa phát thải ròng về 0 (Net-Zero) vào năm 2050, Viglacera đặt đích đến phát triển KCN theo mô hình xanh, thông minh, tập trung thu hút đầu tư vào các ngành, lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ thân thiện môi trường, tạo ra giá trị gia tăng cao.

Theo đó, Tổng công ty Viglacera xác nhận, các dự án KCN giai đoạn tới đều phải hướng tới các tiêu chí xanh để thỏa mãn yêu cầu cao từ các đối tác, khách hàng.

Với các dự án mới, Viglacera đặt ra tiêu chuẩn đầu tư đạt được sẽ là xanh, thông minh, cắt giảm tối đa tiêu hao nguyên, nhiên liệu, giảm tiêu thụ nước, giảm ô nhiễm môi trường. Với các KCN đã đầu tư, đang vận hành, sẽ được đầu tư chuyển đổi, nâng cấp từng phần để đạt được mức xanh hóa cao nhất. Sự thay đổi này là minh chứng cho tầm nhìn và trách nhiệm của Viglacera đối với cộng đồng.

Mục tiêu của chúng tôi là hoàn thiện KCN ở mức hoàn hảo nhất, đáp ứng ở mức cao nhất nhu cầu của nhà đầu tư với một KCN xanh, thông minh, thỏa mãn đồng thời các yêu cầu của địa phương, nhà đầu tư, các nhà mua hàng toàn cầu.

Song song, Viglacera hỗ trợ hướng dẫn nhà đầu tư tại KCN toàn bộ quá trình thực hiện thủ tục đầu tư (gồm: giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) hoàn toàn miễn phí./.

Tổng công ty Viglacera - CTCP

Bạn đang đọc bài viết Phát triển khu công nghiệp xanh tại Việt Nam gắn với xu hướng triển khai của doanh nghiệp. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0912 345 014 Hoặc email: [email protected]

Cùng chuyên mục

Tin mới