Thứ năm, 25/04/2024 15:01 (GMT+7)

Hội thảo “Xử lý Nitơ, Phốt pho trong nước thải đô thị ở Việt Nam: Thách thức và giải pháp”.

MTĐT -  Thứ sáu, 31/03/2017 09:04 (GMT+7)

Theo dõi MTĐT trên

(phapluatmoitruong.vn) - Sáng ngày 30.3, tại Hà Nội diễn ra Hội thảo chuyên đề “Xử lý Nitơ, Phốtpho trong nước thải đô thị ở Việt Nam: thách thức và giải pháp”.

Ông Cao Lại Quang, nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ xây dựng, Chủ tịch Hội cấp thoát nước Việt Nam

Hội thảo này do Trường Đại học Xây dựng;Hội Cấp thoát nước Việt Nam và Công ty CP Đầu tư xây dựng và Thương mại Phú Điền phối hợp tổ chức.

Nước và bùn đô thị chứa một lượng lớn chất dinh dưỡng ở dạng các hợp chất của Nitơ và Phốtpho, có thể gây ra các hiện tượng phú dưỡng trong nguồn tiếp nhận sông, hồ và nước biển ven bờ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế và đô thị hóa nhanh chóng ở Việt Nam hiện nay cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nước ngày càng trầm trọng, đặc biệt các thành phố lớn.

Phát biểu tại Hội thảo, PGS. TS Trần Thị Việt Nga, Trưởng Khoa kỹ thuật Môi trường, Trường Đại học Xây dựng cho biết: “Trong hơn hai thập kỷ qua, nhiều công trình xử lý nước thải (XLNT) đã được đầu tư xây dựng và đưa vào vận hành nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm cấp bách ở Việt Nam. Tuy nhiên, các công nghệ áp dụng phổ biến dựa trên quá trình sinh học truyền thống, chủ yếu nhằm loại bỏ các chất rắn không tan, chất hữu cơ và vi sinh vật trong nước thải mà thực tế các hệ thống xử lý không có công trình loại bỏ N, P nên trong nhiều trường hợp không đạt yêu cầu xả thải”.

PGS. TS Trần Thị Việt Nga ,Trưởng Khoa KTMT, Trường Đại học Xây dựng phát biểu tham luận tại hội thảo.

Tính đến 11/2016, nước ta có 35 hệ thống XLNT tập trung, đang hoạt động với công suất thiết kế khoảng 850,000 m3/ngđ, chiếm 12 – 13% tổng lượng nước thải phát sinh. Khoảng 40 nhà máy XLNT đang được thiết kế/ xây dựng với tổng công suất 1,600,000 m3/ ngđ. 90% khu công nghiệp (190/210) đang vận hành hoặc đang xây dựng hệ thống XLNT. Phần lớn trong số 5,000 làng nghề trên cả nước chưa có trạm xử lý nước thải. Với thực trạng trên của nước ta báo động về việc ô nhiễm môi trường nước ngày càng trầm trọng do nước thải công nghiệp và đô thị.

Hiện nay còn nhiều nhà máy sử dụng công nghệ xử lý nước thải chưa phù hợp như: Nhà máy xử lý nước thải Cần Thơ, với tổng vốn đầu tư gần 500 tỷ đồng. Dù đã xây dựng xong từ năm ngoái nhưng nhà máy vẫn chưa thể vận hành. Lý do là theo công nghệ thiết kế, nước thải sau khi xử lý thải ra sông Hậu chỉ đạt tiêu chuẩn loại B, trong khi theo quy định hiện nay, phải đạt loại A. Điều này khiến các cơ quan chức năng đang đau đầu tìm cách giải quyết và chắc chắn sẽ tốn thêm nhiều chi phí.

Ngoài ra còn có các nhà máy cũng nằm trong tình trạng như vậy như: Nhà máy XLNT Cao Lãnh, nhà máy XLNT Hoa Cương, Sơn Trà , Phú Lộc (Đà Nẵng)…

Tại hội thảo các nhà Khoa học khuyến cáo nên sử dụng công nghệ XLNT bằng phương pháp sinh học. Với chi phí đầu tư và xây dựng công trình xử lý N, P cao hơn công trình XLNT truyền thống,, nhưng hiệu quả lại gấp từ 1,5 – 3 lần. (theo IWA, 2013). Song song với thực tế thiếu hụt nghiêm trọng hạ tầng kỹ thuật xử lý, nước và bùn thải khu vực các đô thị hiện chứa quá nhiều chất dinh dưỡng ở dạng các hợp chất của N và P; là nguyên nhân trực tiếp gây ra tình trạng phú dưỡng trên các sông ngòi, ven biển, đặc biệt là trong các hồ chứa tại khu vực đô thị.

Đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, hiện chưa có những quy chuẩn, quy định riêng về xử lý N và P trong nước thải. Điều đó cho thấy, không chỉ hạ tầng kỹ thuật mà cả các quy định pháp lý cũng chưa theo kịp sự gia tăng của nước thải có nồng độ N và P cao.

Theo ông Nguyễn Phương Quý, Tổng Giám đốc Công ty CP Đầu tư phát triển môi trường SFC Việt Nam, cần phải có bộ quy chuẩn Việt Nam cho các nhà máy xử lý nước thải đô thị tập trung, trong đó chú trọng quy định về xử lý các thành phần N và P. “Đặc thù nước thải đô thị của nước ta là thành phần N, P cao gây ra tình trạng phú dưỡng, dẫn đến hiện tượng tảo nở hoa, đe dọa sự tồn tại của thủy sinh vật. Nếu không sớm có biện pháp ứng phó cụ thể với nguy cơ này, môi trường nước, nhất là các hồ đô thị sẽ còn gặp nhiều rủi ro và ô nhiễm” – ông Nguyễn Phương Quý nhấn mạnh.

Từ thập niên 70 của thế kỷ trước, nước Mỹ đã ban hành những đạo luật kiểm soát chặt chẽ nồng độ Nitơ, Phốt pho trong nước thải và chi 200 tỷ USD cho các nhà máy xử lý, các chuyên gia cho rằng, đã đến lúc báo động về nồng độ Nitơ, Phốt pho trong hệ thống ao hồ và cần phải có giải pháp.

Tại hội thảo, nhiều nhiều chuyên gia khuyến nghị, các nhà máy xử lý nước thải đô thị đã xây dựng nhưng chưa có hệ thống xử lý Nitơ, Phốt pho hoặc việc xử lý chưa đạt chuẩn cần có giải pháp điều chỉnh, nâng cấp cho phù hợp./.

Tin và ảnh: Đồng Xuân Thụ

Bạn đang đọc bài viết Hội thảo “Xử lý Nitơ, Phốt pho trong nước thải đô thị ở Việt Nam: Thách thức và giải pháp”.. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0912 345 014 Hoặc email: [email protected]

Cùng chuyên mục

Tin mới

Bài thơ: Hẹn tương phùng
Ta hẹn người kiếp sau mình gặp lại///Ngay từ thời hai đứa còn ngây thơ///Khi chúng mình chưa vướng sợi duyên tơ///Dành cho nhau trọn mối tình mơ mộng
Long An: Sử dụng tài nguyên nước hợp lý
Được sự quan tâm lãnh, chỉ đạo thường xuyên của lãnh đạo các cấp, công tác quản lý tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh ngày càng đi vào nề nếp, được sử dụng hợp lý, hiệu quả.