Thứ sáu, 19/04/2024 12:28 (GMT+7)

Từ vụ 'tiến sĩ cầu lông': Tiêu chuẩn và thước đo chất lượng thế nào trong đào tạo tiến sĩ?

MTĐT -  Thứ năm, 26/05/2022 09:09 (GMT+7)

Theo dõi MTĐT trên

Cách đây một năm, bản quy chế tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ ban hành theo Thông tư số 18/2021/TT-BGDDT đã gây xôn xao dư luận, với nhiều ý kiến trái chiều cả trên báo chí lẫn mạng xã hội.

Cách đây một năm, bản quy chế tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ ban hành theo Thông tư số 18/2021/TT-BGDDT đã gây xôn xao dư luận, với nhiều ý kiến trái chiều cả trên báo chí lẫn mạng xã hội. Câu chuyện lắng đi một thời gian rồi lại bùng lên với kết quả thanh tra hoạt động nghiên cứu và đào tạo tại Học viện Khoa học xã hội.

Khi bàn đến chất lượng các luận án “tiến sĩ cầu lông” thì hầu hết đều đồng ý là có vấn đề về tiêu chuẩn đánh giá, mà một số người cho rằng nguyên nhân xuất phát từ việc Thông tư 18 đã hạ thấp thước đo chất lượng.

Tiêu chuẩn đánh giá tiến sĩ

Để đánh giá chất lượng đầu ra trong đào tạo tiến sĩ, trước tiên cần phân biệt các loại văn bằng tiến sĩ. Trên thế giới hiện nay có hai nhóm văn bằng tiến sĩ chính: một nhóm theo hướng nghiên cứu theo cách hiểu phổ biến, với văn bằng PhD (Doctor of Phylosophy) hoặc tương đương; một nhóm theo hướng thực hành nghề nghiệp trong một số lĩnh vực đặc thù như nghệ thuật (Doctor of Creative Arts – DCA), giáo dục (Doctor of Education – EdD), quản trị (Doctor of Business Administration – DBA), luật (Doctor of Juridical Science/Studies - SJD)[i]…

Với nhóm văn bằng theo hướng nghiên cứu, dù có học kèm một số nội dung khác hay không, kết quả học tập được trình bày dưới dạng một luận án và được bảo vệ trước một hội đồng khoa học; tuỳ quốc gia và tuỳ cơ sở đào tạo mà có thể có thêm yêu cầu xuất bản hay không. Còn với nhóm văn bằng theo hướng thực hành nghề nghiệp, cách thức đánh giá kết quả học tập thay đổi tuỳ theo đơn vị đào tạo nhưng phần lớn chỉ gồm các môn học có thi hết môn, dù một vài nơi có thể có yêu cầu nghiên cứu hoặc xuất bản.

Từ vụ 'tiến sĩ cầu lông': Tiêu chuẩn và thước đo chất lượng thế nào trong đào tạo tiến sĩ?
Luận án tiến sĩ nghiên cứu giải pháp phát triển môn cầu lông cho công chức viên chức thành phố Sơn La đang gây xôn xao dự luận vừa qua.

Ở Việt Nam hiện nay, có lẽ đã có nhiều người đang sở hữu các loại văn bằng khác nhau như trên, nhưng đều được gọi chung là “tiến sĩ” mà không có sự phân biệt rạch ròi. Trong các văn bản pháp luật về giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng cũng chưa phân định rõ các nhóm văn bằng này. Trong Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và Khung trình độ quốc gia Việt Nam cùng ban hành năm 2016, bậc đào tạo tiến sĩ được định nghĩa theo hướng tương tự với nhóm văn bằng PhD của thế giới. Thông tư 18 cũng thể hiện rõ nét hơn hướng định nghĩa này, với yêu cầu “nghiên cứu khoa học là thành phần chính yếu và bắt buộc trong chương trình”.

Tuy nhiên, vấn đề liên quan đến các văn bằng thuộc nhóm thứ hai thì vẫn còn bỏ ngỏ. Đó là chưa kể đến yếu tố lịch sử để lại, không ít người được cấp các văn bằng vốn không phải là nghiên cứu mà được mặc nhiên “nâng cấp” thành tiến sĩ để làm nghiên cứu hay quản lí, điều hành công tác nghiên cứu. Việc không xác định rõ khả năng nghiên cứu của người mang các văn bằng này, do không có cùng tiêu chuẩn đánh giá, sẽ có ảnh hưởng đến quá trình thực thi quy chế. Bởi lẽ, nếu không có kinh nghiệm học và làm nghiên cứu thực tế theo các chuẩn mực chung thì sẽ khó lòng bảo đảm được chất lượng hướng dẫn nghiên cứu sinh trong một chương trình đào tạo tiến sĩ.

Chất lượng đào tạo tiến sĩ theo hướng nghiên cứu được thể hiện ở sản phẩm đầu ra, gồm ba loại chính: bài viết luận án, bài thuyết trình bảo vệ luận án, và các công trình xuất bản liên quan đến luận án. Với bài viết luận án, tất cả đều cần được phản biện độc lập, nhưng người phản biện có thể cùng hay khác trường (Hoa Kỳ), hoặc bắt buộc có một hoặc hai phản biện ngoài trường (Canada, châu Âu, Úc).

Với bài thuyết trình bảo vệ luận án, đó là thủ tục bắt buộc ở Bắc Mỹ, châu Âu và New Zealand, nhưng không bắt buộc ở Úc, Brazil, Ấn Độ, Malaysia và Nam Phi. Với các công trình xuất bản liên quan đến luận án, cũng tuỳ quốc gia và cơ sở đào tạo mà có yêu cầu bắt buộc số bài báo đăng tạp chí có bình duyệt (peer-review) hay không. Ở một số nước như Hà Lan, Đan Mạch, nghiên cứu sinh có thể công bố kết quả nghiên cứu dưới dạng các bài báo, sau đó ghép lại, bổ sung phần mở đầu và kết luận để tạo thành luận án[ii].

Đối với hai loại sản phẩm đầu là bài viết luận án và bài thuyết trình bảo vệ luận án, các quy định của Thông tư 18 tương đối gần với thông lệ quốc tế hiện nay. Chỉ duy nhất ở loại sản phẩm bài báo của nghiên cứu sinh là gặp nhiều ý kiến trái chiều. Tất cả gần như đều xoay quanh những con số được dùng làm thước đo chất lượng luận án tiến sĩ.

Từ vụ 'tiến sĩ cầu lông': Tiêu chuẩn và thước đo chất lượng thế nào trong đào tạo tiến sĩ?
Nhiều năm nay, xã hội đã râm ran về các luận án tiến sĩ "không giúp ích gì cho cuộc sống". Nguồn: Báo Tuổi Trẻ

Thước đo chất lượng luận án tiến sĩ

Có hai con số được nhiều người quan tâm: số bài báo mà nghiên cứu sinh phải công bố trên các tạp chí khoa học thuộc các danh mục ISI hay SCOPUS; và số điểm mà Hội đồng Giáo sư nhà nước (HĐGSNN) gán cho một tạp chí khoa học trong nước để xếp vào nhóm đạt yêu cầu công bố của nghiên cứu sinh trước khi bảo vệ luận án.

Quy chế đào tạo tiến sĩ cũ ban hành năm 2017 được nhiều người đánh giá là tiến bộ vì bắt buộc chỉ khi có công bố tối thiểu 2 bài báo, trong đó có 1 bài đăng trên các tạp chí ISI/SCOPUS thì nghiên cứu sinh mới đạt tiêu chuẩn chất lượng. Quy chế mới không ràng buộc số lượng 1 hay 2 bài báo mà thay bằng tổng điểm (từ 2,0 trở lên) các công trình xuất bản, chấp nhận cả các chương sách tham khảo do các nhà xuất bản quốc tế có uy tín phát hành và các bài báo đăng tạp chí khoa học trong nước thuộc “hạng” 0,75 điểm do HĐGSNN quy định.

Từ vụ 'tiến sĩ cầu lông': Tiêu chuẩn và thước đo chất lượng thế nào trong đào tạo tiến sĩ?
Chất lượng đào tạo tiến sĩ theo hướng nghiên cứu được thể hiện ở sản phẩm đầu ra, gồm ba loại chính: bài viết luận án, bài thuyết trình bảo vệ luận án, và các công trình xuất bản liên quan đến luận án.Ảnh minh hoạ.

Với các tạp chí ISI/SCOPUS, giả định chung là bài đăng ở đây có chất lượng được công nhận ở tầm quốc tế. Tuy nhiên, bản chất các danh mục tạp chí ISI/SCOPUS được xây dựng dựa trên chỉ số tác động (impact factor – IF), bằng cách lấy tổng số bài báo được trích dẫn của một tạp chí chia cho tổng số bài báo mà tạp chí đó xuất bản trong cùng một quãng thời gian. Một tạp chí có IF cao cho thấy trên tổng thể tạp chí ấy có ảnh hưởng vì được trích dẫn nhiều, nhưng hoàn toàn không phải là cơ sở để xác định chất lượng của một bài báo cụ thể.

Nói một cách nôm na, lấy IF của một tạp chí để xác định chất lượng một bài báo cũng giống như lấy tài sản của những người giàu nhất cộng với tài sản của những người nghèo nhất của một cộng đồng dân cư rồi chia trung bình để xem đấy là giá trị tài sản chung của bất cứ một cá nhân nào trong cộng đồng đó. Dĩ nhiên, các tạp chí có IF cao thường có hệ thống bình duyệt tốt, quy trình xuất bản nghiêm ngặt, nên các công trình được duyệt đăng cũng phải đáp ứng những tiêu chí đánh giá nhất định của các tạp chí ấy. Nhưng xem đó là tiêu chí duy nhất và cứng nhắc để quy đổi thành chất lượng là một sai lầm; dù vậy, đây là cách được ưa chuộng bởi đơn giản và dễ phân thứ hạng. Quy đổi thành một con số định lượng do một bên độc lập cung cấp, thế là xong, không phải bàn cãi tranh luận đánh giá định tính vốn là chuyện luôn đòi hỏi nhiều thứ, không chỉ ở trình độ (tức là tiêu chuẩn đã nói ở trên) mà còn ở niềm tin và trách nhiệm của cá nhân các nhà khoa học và của cả cộng đồng.

Hàng loạt luận án tiến sĩ hay đề tài khoa học được bảo vệ hoàn tất, tức là có đầy đủ điểm số công trình theo quy định (trên giấy), mà vẫn gây bất bình trong dư luận vì không ứng với chuẩn mực đào tạo tiến sĩ và nghiên cứu khoa học (trong thực tế) của thế giới tiến bộ.

Tương tự, các con số thể hiện mức điểm gán cho các tạp chí khoa học trong nước của HĐGSNN cũng thể hiện xu hướng đo lường chất lượng các công trình khoa học bằng những con số định lượng chính xác. Tuy nhiên, khác với IF có cách đo lường và thu thập dữ liệu rất rõ ràng và minh bạch, không ai biết các mức điểm của HĐGSNN được xây dựng dựa trên tiêu chí gì. Thông thường, trong mỗi ngành đều có 4 nhóm tạp chí với các mức điểm: [1] từ 0 đến 1; [2] từ 0 đến 0,75; [3] từ 0 đến 0,5 và [4] từ 0 đến 0,25. Có nghĩa là, bài đăng trên bất cứ tạp chí nào từ nhóm 1 đến nhóm 4 cũng đều có thể bị điểm 0 hoặc chỉ được 0,25, tuỳ theo nhận định của người xét hồ sơ của ứng viên. Và khi nào được điểm tối đa ở mỗi nhóm, khi nào bị chấm thấp hơn, hay vì sao một bài nhóm trên có thể nhận ít điểm hơn một bài nhóm dưới, cũng không có một căn cứ nào rõ ràng.

Chính vì vậy mà từ một thang điểm định lượng có vẻ hết sức chính xác, cụ thể, biên độ diễn giải khác biệt lại trở nên dàn trải, mù mờ, tạo nên những “vùng xám” nhiều khi rất khó hiểu và ít nhiều nhạy cảm. Ở các đợt xét hồ sơ GS-PGS, các thành viên hội đồng giữ vai trò cho điểm các công trình, và sự công tâm của họ quyết định độ chính xác của mức điểm chấm cho ứng viên. Nhưng ở Thông tư 18, không thấy chỗ nào ghi rõ ai là người cho điểm, mà ghi “các công bố phải đạt tổng điểm từ 2,0 trở lên tính theo điểm tối đa”, có thể được hiểu là hễ có bài đăng trong nhóm tạp chí nào thì sẽ đạt mức điểm tối đa của nhóm tạp chí ấy.

Tức là, cách tính điểm này khác biệt hoàn toàn so với cách làm nguyên thuỷ của bảng danh mục tạp chí HĐGSNN. Có lẽ, đây lại càng là một yếu tố làm tăng độ nghi ngờ và giảm niềm tin của không ít nhà khoa học có quan tâm thực sự đến chất lượng của các công bố khoa học trong nước. Hàng loạt luận án tiến sĩ hay đề tài khoa học được bảo vệ hoàn tất, tức là có đầy đủ điểm số công trình theo quy định (trên giấy), mà vẫn gây bất bình trong dư luận vì không ứng với chuẩn mực đào tạo tiến sĩ và nghiên cứu khoa học (trong thực tế) của thế giới tiến bộ.

Nguyễn Tấn Đại

Tác giả Nguyễn Tấn Đại là nhà nghiên cứu độc lập về khoa học giáo dục. Nghiên cứu viên liên kết, Phòng thí nghiệm liên đại học về khoa học giáo dục và truyền thông (LISEC), Đại học Strasbourg, Pháp.

[i] Neumann, R. (2005). Doctoral differences: Professional doctorates and PhDs compared. Journal of Higher Education Policy and Management, 27(2), 173–188.

[ii] Bernstein, B. L., Evans, B., Fyffe, J., Halai, N., Hall, F. L., Jensen, H. S., Marsh, H., & Ortega, S. (2014). The continuing evolution of the research doctorate. In M. Nerad & B. Evans (Eds.), Globalization and its impacts on the quality of PhD education: Forces and forms in doctoral education worldwide (pp. 5–30). Sense Publishers.

Bạn đang đọc bài viết Từ vụ 'tiến sĩ cầu lông': Tiêu chuẩn và thước đo chất lượng thế nào trong đào tạo tiến sĩ?. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0912 345 014 Hoặc email: [email protected]

Theo nguoidothi.net.vn

Cùng chuyên mục

Tin mới

Bài thơ: Ếch
Con ếch ngồi ở đáy giếng///Vì sao nó kêu rất to,///và huyênh hoang quá đỗi?///Giương đôi mắt lồi, nó đang chứng tỏ điều chi?