Nhật ký Thơ viết ở Thất Khê (4)
Vẫn biết xa nhau là thương nhớ///Chẳng có gì bù đắp lại nổi đâu///Vẫn biết đời lính là gian khổ///Sao chúng mình lại say đắm yêu nhau?
NHẬT KÝ THƠ VIẾT Ở THẤT KHÊ (4)
Ngày 27 tháng 7 năm 1984
Vẫn biết xa nhau là thương nhớ
Chẳng có gì bù đắp lại nổi đâu
Vẫn biết đời lính là gian khổ
Sao chúng mình lại say đắm yêu nhau?
Và vẫn biết có thể là mai sau
Anh sẽ không bao giờ về nữa
Cuộc đời em chỉ còn một nửa
Sao chúng mình vẫn chung thuỷ chờ nhau?
Thì có gì lạ đâu
Khi đất nước vẫn còn giặc dã
Những tình yêu từ ngàn năm đã thế!
Ngày 14 tháng 8 năm 1984
Chao ơi, mùa thu!
Trời biên giới cao, xanh đến sững sờ
Gió dịu dàng và mỏng mảnh
Hương mùa màng ngấm vào áo lính
Những đêm trăng níu bước người đi
Như muốn nói điều chi?
Mà cái lá vàng rơi cũng ưu tư
Mà tiếng chim chuyền lảnh lói
Mà trận địa vốn ồn ào dữ dội
Như cũng yên bình sớm nay…
Mùa hạ còn lưu luyến đâu đây
Trong sắc nắng vàng hanh hao đọng mật
Trong mỡ màng phù sa của đất
Trong hương quả chín cuối vườn
Khi ban mai gửi lại những giọt sương
Long lanh bao mặt trời nho nhỏ
Và những chiều hoàng hôn ráng đỏ
Anh cồn cào nhớ em…
Gian khổ nhiều nên dễ mấy mà quên
Cả tuần liền mưa rơi rả rích
Ngồi trong hầm sũng nước
Đố ai hay người lính nghĩ về đâu?
Có thể là trận đánh sắp bắt đầu
Khi mắt giặc bên kia đêm ngày nhòm ngó
Nhưng hãy kệ chúng nó
Súng lên đạn rồi, ta cứ nghĩ về nhau!
Chẳng cần thương vợ chồng nhà Ngâu
Ngày lê thê chơi bài cũng chán
Hết đánh cờ với bạn
Lại tán chuyện người yêu
Đừng giận nhé, anh đã kể em nhiều
Đồng đội nghe mà ghen lên đấy!
Cho ngọn lửa tình yêu chúng mình rực cháy
Sưởi ấm lòng anh suốt mùa đông
Ở quê nhà em có biết không?
Với những người đi giữ biên cương
Chao ơi, mùa thu này đến…
Ngày 02 tháng 10 năm 1984
Nơi đầu tiên đón gió lùa rét buốt
Nơi mùa đông dài hơn mọi miền đất nước
Cái lạnh ngấm vào da thịt chúng tôi
Nhưng trái tim người lính tuổi hai mươi
Dòng máu nóng chưa bao giờ lạnh giá
Dẫu cây súng trên tay người hóa đá
Vẫn một lòng sừng sững chắn gió sương
Hơi ấm nồng nàn xin dành cho quê hương…
Ngày 17 tháng 2 năm 1985
Con ngựa này còn quý hơn vàng bạc
Ta không bán nó đâu
Chẳng bán nó được đâu!
Bao người hỏi, ông ké cũng lắc đầu
Rồi xua tay nói thế
Có một lần chúng tôi nghe kể:
Rằng, ngựa này ta mua tận Cao Bằng
Chọn được giống hay, dáng lại đẹp nhất vùng
Nó khôn lắm, chẳng con nào bì nổi
Chạy đã giỏi, mà thồ hàng cũng giỏi
Lội suối, vượt đèo, lên dốc cứ nhăm nhăm
Nhớ cái hồn chiến tranh
Giặc Trung Quốc bất ngờ tràn tới
Nhờ có nó mà nhà ta thoát nạn
Giờ ta thương nó như người bạn
Xa một ngày, nhớ nó ta quên ăn…
Nhưng rồi có một lần
Dân bản lên chốt thăm bộ đội
Suốt đêm ấy ông ké về nghĩ ngợi
Sáng ra, dắt ngựa đi luôn
Chuyện xảy ra thật khó ai tin
Chúng tôi đứng nhìn nhau và bối rối
Còn ông ké thì nài nỉ như người có lỗi:
“Hãy thương ta, nào bộ đội chỉ huy
Không bán nó đâu, nhưng ta cho mượn mà
Các mày nhận ngựa giùm ta đi!”
Và từ đó điểm tựa 820
Có chú ngựa thồ ngày ngày lên xuống núi
Chăm chỉ chuyển hàng giúp bộ đội…
Ngày 14 tháng 4 năm 1985
Chúng tôi có 5 người
Phục kích chặn đường thám báo
Phải lặng im khi đàn vắt cắn
Lặng im khi muỗi đốt râm ran khắp người
Và lặng im đếm từng giọt nước rơi
Những giọt tròn, giọt méo
Bò lân rân suốt dọc sống lưng tôi
Đêm mưa này rừng ơi
Chớp vẫn loé lên nhằng nhịt rách trời
Tiếng sấm ì ùng đuổi nhau mải miết
Đàn chim rừng ngủ mơ
Choàng dậy bay lên kêu thảng thốt
Những chiếc lá ớt rùng mình
Thú rừng kiếm ăn rung cây sột soạt
Ánh lân tinh sáng trên đầu nhoè nhoẹt
Đất mềm đi dưới hơi ấm chân người…
Đêm mưa này, rừng ơi!
Chắc mẹ ngủ lâu rồi
Em cũng ngủ say rồi
Cứ yên tâm vẫn có chúng tôi
Ôm súng ngồi chờ giặc đến
Ôm súng đón mặt trời lên
Thức với rừng biên giới tròn đêm…
Trích Nhật ký Thơ, viết ở Thất Khê, thập niên 80