Không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì có được Nhà nước bồi thường khi thu hồi đất?
Tại khoản 1 Điều 75 Luật Đất đai 2013 quy định về điều kiện hộ gia đình, cá nhân được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng...
Hỏi
Năm 2014 hộ dân bị thu hồi đất ở, nhưng hộ dân tự tìm đất tái định cư; đến năm 2018 hộ dân mua được 01 thửa đất nhưng do thiếu hiểu biết pháp luật không sang nhượng tên được (chỉ có hợp đồng ủy quyền) đến năm 2021 lại vào dự án; nhưng nhà bị vào quy hoạch không thể sửa nhà được, hộ dân thuê nhà bên cạnh để ở. Khi thực hiện phương án đền bù thì đền bù cho chủ cũ. Vậy có căn cứ nào để bố trí hộ dân 01 ô đất không?
Trả lời
Tại khoản 1 Điều 75 Luật Đất đai 2013 quy định về điều kiện hộ gia đình, cá nhân được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng như sau:
“Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận) hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật này; người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam mà có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp”
Như vậy, hộ gia đình, cá nhân được bồi thường khi nhà nước tiến hành thu hồi đất phải đảm bảo điều kiện người sử dụng đất có Giấy chứng nhận hoặc chưa được cấp Giấy chứng nhận nhưng đất đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo Luật Đất đai năm 2013 mà chưa được cấp thì được bồi thường. Việc xem xét điều kiện để được bồi thường đối với trường hợp chưa được cấp Giấy chứng nhận phải căn cứ vào điều kiện, căn cứ để được cấp GCNQSDĐ tại các Điều 100, Điều 101, Điều 102 Luật Đất đai năm 2013. Đối với tình huống trên, thửa đất bị thu hồi đã không sang nhượng tên mà chỉ có hợp đồng ủy quyền để sử dụng đất nên không đủ điều kiện để được bồi thường về đất khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất.
Liên quan đến tái định cư cho người có đất bị thu hồi mà không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại Điều 86 Luật Đất đai 2013 quy định như sau:
“Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện giao trách nhiệm bố trí tái định cư phải thông báo cho người có đất ở thu hồi thuộc đối tượng phải di chuyển chỗ ở về dự kiến phương án bố trí tái định cư và niêm yết công khai ít nhất là 15 ngày tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi và tại nơi tái định cư trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt phương án bố trí tái định cư.”
Theo đó, Nhà nước hỗ trợ bố trí tái định cư cho người bị thu hồi đất trong trường hợp những người có đất ở bị thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở. Phần đất bị thu hồi trong trường hợp trên không được ghi nhận là đất ở của hộ dân cùng với đó căn cứ theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thể hiện hộ dân là người sử dụng đất bị thu hồi nên hộ dân không đủ điều kiện để được Nhà nước bố trí, hỗ trợ tái định cư.