Thứ sáu, 26/04/2024 23:22 (GMT+7)

Đưa nông nghiệp trở thành miền đất hứa

PGS.TS Nguyễn Đức Khiển -  Thứ tư, 17/02/2021 10:06 (GMT+7)

Theo dõi MTĐT trên

Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, cần đầu tư hơn nữa cho ngành nông nghiệp vì đây là lĩnh vực còn nhiều tiềm năng tăng trưởng.

Năm 2020, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai, dịch bệnh nhưng mức tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam vẫn ước đạt 2 đến 3% - trở thành một trong những quốc gia có tốc độ phát triển cao nhất trong khu vực và trên thế giới. Kết quả này có sự đóng góp không nhỏ của ngành nông nghiệp với những con số ấn tượng cả trong sản xuất và xuất khẩu.


Năng suất đạt 66,4 tạ/ha, sản lượng toàn vụ đạt 19,9 triệu tấn. Tiếp đến vụ mùa, vụ thu - đông đều được mùa, trúng giá, tạo ra một lượng lương thực lớn, không những bảo đảm an ninh lương thực quốc gia mà còn phục vụ tốt cho xuất khẩu.


Bên cạnh sản xuất, năm 2020 cũng chứng kiến sự bứt phá mạnh mẽ của xuất khẩu nông, lâm, thủy sản với tổng kim ngạch ước đạt hơn 41 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành một trong những nước dẫn đầu khu vực Ðông - Nam Á về xuất khẩu nông sản. Ðiều này không chỉ có giá trị đối với nền kinh tế mà còn góp phần quan trọng trong bảo đảm các mục tiêu an sinh xã hội, bởi đằng sau con số tăng trưởng ấy là cơ hội việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống người lao động.
Vượt qua cả những giá trị kinh tế, có thể khẳng định đây là giá trị xã hội vô cùng to lớn và đáng trân trọng.


Chăm lo cho nông nghiệp


Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, cần đầu tư hơn nữa cho ngành nông nghiệp vì đây là lĩnh vực còn nhiều tiềm năng tăng trưởng. Ðiều này đúng, nhưng không chỉ tăng cường đầu tư vì mục đích tăng trưởng mà cần xác định phải chăm lo nhiều hơn nữa cho khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn như một cách để tri ân, để trả món "nợ ân tình". Bởi lẽ, đây là nơi "nuôi cái ăn chung" cho cả nước nhưng cũng lại chính là khu vực dễ tổn thương nhất khi có những rủi ro về thiên tai, dịch bệnh hay suy thoái kinh tế trong nước và thế giới. Con số di dân của đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) - vùng kinh tế nông nghiệp trọng điểm của cả nước đã cho thấy nhiều điều. Theo báo cáo kinh tế thường niên ÐBSCL năm 2020, số lượng dân di cư khỏi vùng trong 10 năm (2009 - 2019) là gần 1,1 triệu người, lớn hơn dân số của một số tỉnh trong vùng và tương đương với số tăng dân số tự nhiên của cả vùng. Trong khi đó, tỷ lệ nhập cư lại ở mức thấp nhất, vì vậy, ÐBSCL là vùng duy nhất có tỷ lệ tăng dân số 0% trong giai đoạn 2009 - 2019. Nguyên nhân chủ yếu là do phần đông lao động trẻ đã di cư lên Ðông Nam Bộ và các khu vực khác tìm kiếm việc làm do nền kinh tế ÐBSCL, trọng tâm là nông nghiệp hiện chưa đáp ứng được nhu cầu về sinh kế cho người lao động. Trong cuộc thảo luận về kinh tế - xã hội tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV tháng 11-2020, đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang Hồ Thanh Bình trăn trở. ÐBSCL đã và đang thực hiện tốt kinh tế nông nghiệp và bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Thành tích là thế, nhưng vùng hiện nay đối diện tụt hậu về kinh tế; thu nhập của người dân còn chưa ổn định, lệ thuộc rất nhiều vào thị trường nông sản với điệp khúc "được mùa mất giá". Chính vì vậy cần có chiến lược phát triển ÐBSCL là một vùng kinh tế trọng điểm của quốc gia trong nhiệm kỳ 2021 - 2025 và tầm nhìn 2030 - 2045.


Ý kiến của đại biểu Hồ Thanh Bình cũng cho thấy một đòi hỏi từ thực tế. Ðó là, chúng ta cần sớm có chiến lược phát triển tổng thể cho khu vực này với mục tiêu cụ thể là phát huy tốt nhất lợi thế của từng vùng, đưa nông nghiệp trở thành "vùng đất hứa", thu hút mạnh mẽ đầu tư trong nước và nước ngoài. Ðiều quan trọng nữa là cần thu hút trở lại một lượng lớn nhân lực đã di cư, cũng như "giữ chân" những lao động còn đang ở lại, để sớm xây dựng nền nông nghiệp nước nhà trở thành một trong những "trụ chính" của nền kinh tế, chứ không chỉ đóng mỗi vai trò trụ đỡ trong những thời điểm gian nguy.


Trong 10 năm gần đây (2009 - 2019), tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành nông nghiệp đạt trung bình 2,61%/năm, tốc độ tăng giá trị sản xuất đạt 3,64%, đóng góp đáng kể trong tăng trưởng GDP cả nước. Riêng quý III - 2020, lĩnh vực nông, lâm, thủy sản đạt mức tăng trưởng GDP 2,93%, cao hơn cả khu vực công nghiệp và dịch vụ.


HƯỚNG MỚI CHO TÔM – LÚA CÀ MAU
Sắc vàng đã tràn về trên khắp những cánh đồng lúa Cà Mau, báo hiệu mùa thu hoạch đến. Niềm vui của nhà nông như được nhân lên khi hạt lúa gieo trồng trên những cánh đồng nhiễm mặn giờ đã được công nhận là sản phẩm sạch, được bao tiêu gần như toàn bộ đầu ra.


Lúa sạch trên đồng mặn


Miệng cắn mấy hạt lúa vừa chuyển vàng còn thơm mùi sữa ngay mé đồng được canh tác theo quy trình "Lúa sạch Thới Bình", nụ cười nở bừng trên gương mặt lão nông Trịnh Hoàng Cung, Giám đốc Hợp tác xã (HTX) Dân Phát (ấp Sáu La Cua, xã Biển Bạch Ðông, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau): "Thời tiết năm nay không thuận lắm nhưng bụi lúa nở to, hạt chắc đều. Với đà này, năng suất không dưới 4 tấn/ha", ông Cung rổn rảng.


Dân Phát là một trong hai HTX nông nghiệp đầu tiên trên địa bàn xã Biển Bạch Ðông. Vụ lúa trên đất nuôi tôm (lúa - tôm) năm nay, 339 ha đất của HTX tiếp tục gieo trồng giống ST 24 - một trong những giống lúa ngon nhất Việt Nam hiện nay. Với giống lúa ấy, trong năm 2019, hơn 3 ha lúa nhà ông Cung thu về gần 13 tấn. Tuy năng suất chưa cao nhưng nhờ canh tác theo mô hình lúa sạch mà toàn bộ lúa của gia đình ông Cung và xã viên HTX được bao tiêu đầu ra với giá 7.200 đồng/kg, giúp thu nhập vụ lúa bình quân của mỗi hộ xã viên tăng từ 20-30%.


Huyện Thới Bình là "thủ phủ" vùng lúa - tôm của tỉnh Cà Mau với khoảng 20.000 ha, chiếm gần 50% diện tích lúa - tôm trên địa bàn tỉnh. Nhờ tăng cường tuyên truyền và đẩy mạnh chuyển giao khoa học, kỹ thuật mà đến nay, khoảng 70% số nông hộ canh tác lúa - tôm trên địa bàn huyện đã chuyển đổi các giống lúa mùa phẩm chất gạo thấp sang các giống ngắn ngày chất lượng cao có gốc ST, được canh tác theo quy trình lúa an toàn, lúa hữu cơ, lúa sinh thái...


Gõ cửa thị trường khó tính nhất


Do nhiều nguyên nhân, một số vùng ở Cà Mau có nguồn nước mặn - ngọt theo mùa. Tức, mùa mưa thì nước ngọt và mùa hạn thì nước mặn. Ðiều kiện đặc thù ấy thích hợp canh tác lúa - tôm, một trong những mô hình được đánh giá là thuận thiên, bền vững trong điều kiện biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt. Ðến nay, toàn tỉnh đã phát triển lúa - tôm lên hơn 40.000 ha, trong đó Thới Bình là vùng canh tác lúa - tôm trọng điểm của tỉnh. Chủ tịch UBND huyện Thới Bình Lý Minh Vững cho biết: Thới Bình tiếp tục phát triển mô hình lúa - tôm sạch, lúa - tôm hữu cơ... gắn với phát triển du lịch dựa vào cộng đồng, thích ứng biến đổi khí hậu. Ðó cũng là một trong ba khâu đột phá mà Ðảng bộ huyện xác định trong nhiệm kỳ 2020-2025.


Cà Mau có ba bề giáp biển cho nên sản xuất nông nghiệp rất dễ bị tổn thương trước những tác động tiêu cực từ thời tiết và biến đổi khí hậu. Ý thức rõ những tác động bất lợi ấy thời gian qua, chính quyền và cơ quan chức năng tỉnh đã đẩy mạnh quy hoạch, định hình và tổ chức lại sản xuất theo vùng chuyên canh một cách khoa học, bài bản. Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cà Mau Lê Thanh Triều phân tích: Trong chỉ đạo sản xuất, chúng tôi định hướng rõ là phải theo quy trình, tiêu chuẩn, nhằm tạo ra sản phẩm chất lượng cao, có các chứng nhận đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường nhằm có đầu ra ổn định, tránh tình trạng người dân thích gì trồng đó và làm theo tập quán.


Ðịnh hướng này giúp Cà Mau đột phá vào phân khúc thị trường nông sản sạch và an toàn đầy triển vọng. Ðến nay, Cà Mau xây dựng thành công một số vùng chuyên canh lúa - tôm gắn với chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ với tổng diện tích hơn 15.000 ha, chiếm khoảng 19% tổng diện tích canh tác lúa toàn tỉnh. Trong đó, một số sản phẩm lúa đã được công nhận thương hiệu, như: "Lúa sinh thái Cà Mau", "Lúa sạch Thới Bình", "Gạo sạch Minh Tâm", "Gạo sạch Ông Muộn"…


Trong mười chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ ngành hàng lúa mà Cà Mau đã tạo dựng, có khoảng 8.500 ha lúa cao sản an toàn; 2.500 lúa thơm đặc sản (ST24, ST25, Ðài Thơm 8); lúa - tôm đặc sản (ST24, ST25) khoảng 3.000 ha; khoảng 700 ha lúa hữu cơ đạt tiêu chuẩn quốc tế USDA, EU, JAS. USDA của Mỹ, EU của châu Âu và JAS của Nhật Bản. Ðây đều là những tiêu chuẩn khắt khe và cao nhất thế giới hiện nay. Một khi đã có được ba "tấm thẻ xanh" này, hạt gạo và nông sản Cà Mau sẽ rộng đường xuất ngoại, cả với những thị trường "khó tính" trên thế giới.


VỊ NGỌT CỦA RỪNG


Rừng ngập mặn điệp trùng ôm lấy Ða Lộc (Hậu Lộc, Thanh Hóa). Tôm cá sinh sôi, ong rừng cũng về làm mật, người dân làng biển thêm những nụ cười.
1 USD bằng 130 USD.


Rừng ngập mặn chủ yếu trồng vẹt, bần, sú... Hơn 10 năm qua, rừng quanh làng lúc nào cũng xanh mướt, che chắn bão tố. "Nhiều năm nay nguồn cua cá, hải sản chưa bao giờ cạn, bởi rừng mọc tới đâu là cua cá về bám dưới tầng rễ cây làm tổ ấp trứng tới đó, chúng ngụ giữa rễ cây ngập nước", chị Bùi Thị Dìn, 56 tuổi (thôn Yên Lộc), một trong những người đầu tiên tham gia trồng rừng ngập mặn ở Ða Lộc cách nay 14 năm, hồ hởi chia sẻ.


Ðâu là khởi điểm để có cánh rừng bạt ngàn chạy dọc năm km bờ biển, vươn ra biển tới hơn một km như hôm nay? Ông Nguyễn Viết Nghị, điều phối viên Dự án Quỹ Khí hậu xanh (GCF) thuộc Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) nhớ lại: Vào tháng 9-2005, cơn bão Damrey tràn qua bờ biển phía đông của tỉnh Thanh Hóa. Các cuộc khảo sát sau cơn bão cho thấy: Nơi rừng ngập mặn tồn tại, đê không bị phá vỡ do triều cường. Giảm thiệt hại thiên tai, không có cách nào khác là củng cố đê biển bằng cách trồng rừng ngập mặn.


Vào năm 2006, ông Nghị đến Ða Lộc với nhiệm vụ trồng và quản lý rừng ngập mặn, dự án ban đầu do Tổ chức Care Việt Nam triển khai. Kế hoạch rất đơn giản: Hỗ trợ cộng đồng trồng "một bức tường sống" là cây rừng ngập mặn, nhằm chống lại các cơn bão trong tương lai. Nhưng ở lần đầu, cây cối đã chết chỉ sau hai tháng. May sao, phát hiện được nguyên nhân cây chết là do các con hà bám vào. Dân làng khi ấy lại vào cuộc chiến đấu mới, cạo hà khỏi cây, ngày này qua tháng khác, cho đến khi cây con trưởng thành và đủ khả năng tự chống chịu.
Ðến nay, Ða Lộc trồng hơn 400 ha rừng ngập mặn dọc bờ biển. Những cây lớn nhất tạo thành một "bức tường" dày chắn sóng. Toàn bộ hoạt động chỉ tốn 1.000 USD/ha rừng trồng. Ông Nghị đưa ra phép tính: "Ðầu tư một USD cho trồng rừng ngập mặn, tiết kiệm được 130 USD làm đê bê-tông". Ðó là một cách tiết kiệm chi phí để bảo vệ các làng biển nơi đây trước thời tiết khắc nghiệt, đồng thời thúc đẩy an ninh lương thực và cải thiện thu nhập. "Bây giờ, khi một cơn sóng lớn đến, rừng ngập mặn lấy năng lượng của nó và làm cho nước lặng sóng, giống như một bàn tay lớn xòe ra che chở mọi người", ông Nghị ví von.


Trồng rừng, lại được rừng nuôi


Rất nhiều hộ dân Ða Lộc nay làm ao nuôi tôm cạnh rừng. Qua tìm hiểu, các hộ nông dân thấy: Nhờ có rừng ngập mặn, nước thủy triều vào ao tôm đã được làm sạch bởi bộ lọc là rễ cây rừng. Cây bần chua có rễ thở, cho nên đã hút các chất bẩn ô nhiễm ngay tại rừng, khi nước vào ao nuôi tôm đã sạch sẽ an toàn. Thấy được lợi ích của rừng ngập mặn với nuôi tôm, một số hộ gia đình còn trồng rừng cạnh ao tôm để vừa chống xói lở bờ ao, làm bóng mát cho tôm mùa hè và lọc nước sạch cho ao tôm phát triển bền vững, ít dịch bệnh.
Biết rừng cây sú, vẹt trổ hoa quanh năm, người dân các xã Nga Thủy, Ða Lộc từ lâu đã có kinh nghiệm nuôi ong lấy mật, nên càng nhiệt tình hưởng ứng dự án GCF. Gia đình ông Nguyễn Văn Tái, 68 tuổi (thôn Lê Lợi, xã Nga Thủy) đã có hơn 10 năm nuôi ong mật. Tuy nhiên, trước đây, gia đình chỉ nuôi theo kinh nghiệm học hỏi từ những hộ đi trước tại địa phương. Sau khi tham gia mô hình nuôi ong mật, được tập huấn, mở rộng kiến thức, hiểu biết về kỹ thuật, hiện gia đình ông nuôi 30 đàn. "Nuôi ong mật mang lại hiệu quả kinh tế thấy rõ. Ðặc biệt, kể từ khi tham gia mô hình, gia đình tôi nâng cao được thu nhập; có tổ chức hội để hoạt động và trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ nhau về mọi mặt, vững tin phát triển nghề", ông Tái bộc bạch.
Ðáng mừng, 40 hộ làng biển được hỗ trợ cấp 180 đàn ong từ tháng 2-2020. Ðến hết tháng 6-2020, tổng sản lượng mật thu về của các hộ đạt 1.400 kg, doanh thu đạt 280 triệu đồng, lợi nhuận ước đạt 240 triệu đồng. Thành công của mô hình nuôi ong lấy mật trở thành tiền đề cho việc phát triển nghề nuôi ong và xây dựng thương hiệu mật ong rừng ngập mặn của xã Ða Lộc.
Không chỉ vậy, trên địa bàn các huyện ven biển của tỉnh Thanh Hóa, nhiều mô hình sản xuất thích ứng với biến đổi khí hậu đã và đang được triển khai thực hiện, như các mô hình: "Nuôi tôm sú xen ghép cua xanh", "Nuôi tôm sú xen ghép cá rô phi", "Nuôi cua xanh thương phẩm"... Giám đốc Ban Quản lý GCF tỉnh Thanh Hóa Lê Công Cường vui mừng: "Những tín hiệu mới đã mở ra kỳ vọng trong tương lai. Những kết quả bước đầu đã phần nào cho thấy tính thiết thực, bền vững của các mô hình sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu".
Nhận thức đúng đắn được hình thành từ thực tế, sự sống còn của làng và "miếng cơm manh áo" mỗi nhà, nên người dân càng quý rừng, quyết tâm tiếp tục trồng rừng. Rừng ngập mặn nơi đây sẽ còn có thể trở thành điểm thu hút nhiều du khách. Nghĩa là, rừng lại mở thêm cho con người những cánh cửa lấp lánh ước mơ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ánh Tuyết, “Đưa nông nghiệp trở thành miền đất hứa”, Tạp chí Nhân dân, Xuân Tân Sửu – 2021.
2. Hữu Tùng, “Hướng mới cho tôm – lúa Cà Mau”, Nhân dân xuân Tân Sửu – 2021.
3. Hữu Dân, Nam Khánh, “Vị ngọt của rừng”, Nhân dân xuân Tân Sửu – 2021.

Bạn đang đọc bài viết Đưa nông nghiệp trở thành miền đất hứa. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0912 345 014 Hoặc email: [email protected]

Cùng chuyên mục

Liên hợp quốc lập quỹ chống chịu khí hậu mới
Liên hợp quốc (LHQ) ngày 24/4 đã công bố kế hoạch triển khai quỹ chống chịu khí hậu mới nhằm tăng cường bảo vệ “những người tị nạn và cộng đồng phải di dời”, vốn đang bị vấn đề biến đổi khí hậu đe dọa.

Tin mới