Thứ sáu, 26/04/2024 07:18 (GMT+7)

Đổi mới tư duy trong quản lý phát triển đô thị bền vững

MTĐT -  Thứ hai, 21/11/2022 11:50 (GMT+7)

Theo dõi MTĐT trên

Ngày 24/1/2022, Bộ Chính trị đã ban hành nghị quyết 06 về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

tm-img-alt
Phát triển đô thị bền vững theo hướng Xanh - Văn hiến - Văn minh - Hiện đại. Ảnh: Việt Dũng  

Ngày 24/1/2022, Bộ Chính trị đã ban hành nghị quyết 06 về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó đã đánh giá quá trình đô thị hoá và nhận định:

“Sau 35 năm đổi mới, nhất là trong 10 năm vừa qua, công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả rất quan trọng. Đến cuối năm 2020, hệ thống đô thị nước ta đã có 862 đô thị các loại (tác giả: 869 đô thị trong cả nước (tính đến 2021), phân bổ tương đối đồng đều trong cả nước. Tỷ lệ đô thị hoá xác định theo địa bàn có chức năng đô thị đã tăng từ 30,5% năm 2010 lên gần 40% năm 2020. Không gian đô thị được mở rộng; hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư theo hướng ngày càng đồng bộ và hiệu quả hơn; chất lượng sống của cư dân đô thị từng bước được nâng cao. Đô thị hoá và phát triển đô thị trở thành động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế khu vực đô thị tăng trưởng ở mức cao, đóng góp khoảng 70% GDP cả nước.”

”Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa, công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị vẫn còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ đô thị hoá đạt được thấp hơn mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và còn khoảng cách khá xa so với Tỉ lệ bình quân của khu vực và thế giới. Chất lượng đô thị hoá chưa cao, phát triển đô thị theo chiều rộng là chủ yếu, gây lãng phí về đất đai, mức độ tập trung kinh tế còn thấp. Quá trình đô thị hoá và phát triển đô thị chưa gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nông thôn mới.”.

”Những hạn chế, yếu kém có nhiều nguyên nhân, những nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Nhận thức về đô thị hoá và phát triển đô thị bền vững chưa đầy đủ và chưa được quan tâm đúng mức. Công tác quy hoạch đô thị chậm đổi mới, thiếu tầm nhìn, chất lượng thấp; việc triển khai thực hiện còn nhiều hạn chế, nhiều nơi việc điều chỉnh quy hoạch còn tùy tiện. Thể chế, chính sách về đô thị và phát triển đô thị còn thiếu đồng bộ và ổn định. Đứng trước nhu cầu từ thực tế, Đảng và Chính phủ đã yêu cầu, khuyến khích và đẩy mạnh những Đề xuất đổi mới công tác lập QHĐT phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế mà có thể giải quyết những tồn tại hạn chế trong phương pháp quy hoạch truyền thống, nhằm xây dựng các đô thị Việt Nam hiện đại, bản sắc và bền vững là mong muốn từ chính quyền các cấp, các nhà hoạch định quy hoạch, chính sách phát triển đô thị, người dân và nhà đầu tư.

Trong mục 2 của Nghị Quyết 06, đã chỉ rõ cần phải: Nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị đáp ứng yêu cầu xây dựng, quản lý phát triển đô thị bền vững: “Đổi mới toàn diện về phương pháp, quy trình, nội dung và sản phẩm quy hoạch theo hướng quy hoạch đô thị phải có cách tiếp cận đa ngành, bao trùm tầm nhìn dài hạn, toàn diện, có tính chiến lược, tôn trọng quy luật thị trường và nguyên tắc phát triển bền vững; bảo đảm tính tầng bậc, liên tục, thống nhất, đầy đủ, tích hợp của hệ thống quy hoạch, gắn kết chặt chẽ với quy hoạch nông thôn; phân định rõ các vùng trong nội dung quy hoạch đô thị và áp dụng các công cụ kiểm soát phát triển theo quy hoạch và kế hoạch; gắn quy hoạch đô thị với nguồn lực thực hiện. Xây dựng hệ thống dữ liệu toàn quốc về quy hoạch phát triển đô thị; ứng dụng rộng rãi hệ thống thông tin địa lý (GIS) và công nghệ số, nền tảng số trong quy hoạch và quản lý phát triển đô thị.”

Theo Luật Quy hoạch (2017), hệ thống quy hoạch quốc gia gồm: quy hoạch cấp quốc gia (Quy hoạch tổng thể quốc gia, Quy hoạch không gian biển quốc gia, Quy hoạch sử dụng đất quốc gia và 39 quy hoạch ngành quốc gia), 6 quy hoạch vùng, 63 quy hoạch tỉnh, các quy hoạch đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (quy hoạch đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội quy định) và quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn. Hiện nay các Bộ và các Tỉnh đang triển khai khẩn trương để phê duyệt theo đúng thẩm quyền mặc dù còn khá nhiều khó khăn, bất cập khi triển khai nhưng sẽ tiệm cận dần cái đúng qua quá trình nhận thức, phương pháp tiếp cận cũng như hiệu quả sau khi các Quy hoạch này được duyệt.

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ TỰ NHẬN THỨC

1. Tồn tại trong phương pháp lập quy hoạch đô thị

Công tác lập QHĐT hiện nay là cả một quá trình hình thành lịch sử tiếp thu từ những kiến thức thuộc thời kỳ QHĐT thời Pháp thuộc và được đổi thay theo mô hình quy hoạch của nước ngoài và kinh nghiệm quản lý đô thị từng thời kỳ đã đóng góp rất nhiều cho công cuộc phát triển và tạo ra diện mạo đô thị như hiện nay.

Tuy vậy, phương pháp lập QHĐT hiện là phương pháp quy hoạch vật thể truyền thống với chịu ảnh hưởng của loại hình Quy hoạch từ các quốc gia XHCN (trước đây) và có tiếp thu một số phương pháp quy hoạch hiện đại từ các quốc gia Phương Tây có nền kinh tế thị trường khá rõ nét. Cho nên QHĐT hiện nay dường như phù hợp với nền kinh tế bao cấp theo tầng bậc, nhiều tính chỉ đạo từ trên xuống, sự tham gia của các ngành, các thành phần dân cư đô thị chưa thực sự đồng bộ mặc dù đã có luật quy định.

Nhiều quy định cứng nhắc, bó buộc, chưa tạo ra những chiến lược và ý tưởng sáng tạo do các Nhà đầu tư, người dân trong quá trình phát triển đô thị cũng như nhiều tư vấn trong và ngoài nước khi tham gia phát triển các dự án đầu tư…Nhiều đồ án QHC, QH Phân khu và Chi tiết đã phải điều chỉnh liên tục với quy trình điều chỉnh bắt buộc đã tạo ra nhiều lãng phí thời gian và tiền bạc của xã hội nhiều khi không cần thiết.

Vì vậy, phương pháp và quy trình như hiện nay xem ra chưa phù hợp với mô hình kinh tế thị trường có sự tham gia của các chủ đầu tư, không đủ điều kiện linh hoạt, nhạy bén để bám sát nhu cầu thực tế nên thiếu tính khả thi và phải điều chỉnh liên tục, không xóa “treo” được. Tính tích hợp các ngành và sử dụng kết quả của các quy hoạch ngành khác vào quy hoạch đô thị còn hạn chế.

Các chuyên gia quy hoạch đang sử dụng phương pháp hai chiều về quy hoạch phát triển đất đai, thuần túy coi đây là vấn đề phân vùng, các mạng lưới và dự báo. Trong khi cần sự hiểu biết kỹ lưỡng hơn về thị trường bất động sản và tính chất đa chiều của tài nguyên đất, yếu tố xã hội, văn hóa, môi trường và biến đổi khí hậu.

2. Tồn tại trong nội dung lập quy hoạch đô thị

Quy hoạch chung xây dựng đô thị (QHC)

Hiện nay, đồ án QHC được lập cho hầu hết các đô thị từ loại đặc biệt xuống loại 5 mặc dù cũng đã có một đồ án xây dựng tầm nhìn nhưng hầu hết đều thiếu thống nhất các chiến lược, giải pháp cũng như các định hướng không gian. Việc tập hợp các quy hoạch ngành liên quan chưa có quy trình thống nhất (Luật Quy hoạch mới được thực hiện đầu năm 2019), chưa có những hướng dẫn cụ thể mang tính chế tài qui định để lồng ghép các ngành vào QHĐT.

Nội dung dự báo còn nhiều bất cập do thiếu các công cụ dự báo hiện đại dẫn đến quy hoạch có tầm nhìn ngắn hạn, mang nhiều tính chủ quan, áp đặt, mong muốn hơn là dựa trên các cơ sở khoa học vững chắc.

Nhiều chỉ tiêu tính toán trong QHĐT hiện nay về cơ bản dã đáp ứng để các quy hoạch/ kế hoạch sử dụng đất và các ngành khác kết nối tính toán khi thực hiện các quy hoạch chuyên ngành, cũng như để quản lý phát triển, cấp chứng chỉ quy hoạch, phê duyệt các dự án … nhưng nhiều chỉ tiêu cũng lại làm trở ngại quá trình phát triển như tầng cao, dân số, mật độ cư trú cũng chưa có…dẫn đến nhiều dự án phát triển đô thị tại các đô thị đều phải điều chỉnh khi gặp các dự án đầu tư trên thực tế.

Hệ thống hạ tầng kỹ thuật trong đồ án QHC hiện nay về cơ bản đáp ứng cho bước phát triển dự án tiếp theo, nhưng vẫn còn nhiều thông số, mạng lưới…ở cấp độ chi tiết thường không sử dụng vì thực tế các dự án đầu tư hạ tầng lại đòi hỏi khá kỹ, chi tiết cho nên trên thực tế nhiều bản vẽ hạ tầng kỹ thuật không được sử dụng làm công tác quản lý mà chủ yếu làm cơ sở cho một số dự án hạ tầng chuyên ngành.

Đánh giá ĐTM trong các đồ an QHC là cần thiết, nhưng thực tế lại chưa đồng hành cùng các giải pháp không gian, tác động thực chất khi tính toán các giải pháp tối ưu lựa chọn định hướng phát triển. Vì vậy, nhiều đồ án lại mang tính hình thức, làm cho có mà không đóng góp hiệu quả cho các quyết định cuối cùng nhằm đạt được yêu cầu về PTBV, ứng phó với BĐKH.

Việc thiếu thống nhất tên gọi các loại đất trong QHCĐT và quy hoạch/kế hoạch Sử dụng đất cũng tạo ra những khó khăn khi quản lý tổng hợp trên địa bàn và công tác cấp đất, cấp phép cho người dân và dự án.

Quy hoạch phân khu (QHPK):

Quy hoạch phân khu hiện nay dựa trên Quy hoạch chi tiết tỉ lệ 1/2000 trước đây cũng là một bước thể hiện những ý tưởng phát triển từng khu chức năng đô thị hoặc từng khu vực phát triển do chính quyền có trách nhiệm lập và dùng đồ án này làm cơ sở lập các QHCT ( phần lớn do các chủ đầu tư là tư nhân thực hiện).

Đây là mấu chốt chủ yếu làm kéo dài thời gian quy hoạch nói chung, làm chậm lại tiến trình đưa ý tưởng phát triển đô thị từ đồ án QHC đến xây dựng các công trình và khu vực phát triển đô thị. Nhiều đồ án QHPK vừa được phê duyệt đã phải điều chỉnh, hoặc không được các nhà đầu tư khi lập qui hoạch chi tiết chấp nhận nên đã yêu cầu điều chỉnh lại quy hoạch phân khu nhằm hợp pháp hóa các QHCT đang được lập để đầu tư xây dựng.

Chi phí lập do ngân sách nhà nước phải bỏ ra không đáp ứng đủ yêu cầu phủ kín QHPK đô thị nên nhiều đô thị phải giao các Chủ đầu tư thực hiện bằng vốn của họ, sau đó nhà nước sẽ phải trả lại qua việc khấu trừ vào các chi phí đóng góp cho nhà nước. Thực chất, nhiều nội dung của QHPK trùng hợp nhiều với các Phân khu/Khu chức năng trong đồ án QHC đã lập. Việc gợi ý mô phỏng không gian không có giá trị lắm vì các đồ án QHCT gần như không theo những gợi ý này.

Quy hoạch chi tiết (QHCT):

Quy hoạch chi tiết phần lớn do các Chủ đầu tư (tư nhân hoặc nhà nước tùy theo tính chất và khu vực lập đồ án) tại các quận, phường, các khu có chức năng đặc thù làm cơ sở để xây dựng hạ tầng, thiết kế các công trình kiến trúc, cảnh quan…

Nhưng trong quy tình hiện nay, các đồ án QHCT hầu hết chỉ đáp ứng yêu cầu về Sử dụng đất, hạ tầng kỹ thuật như mạng giao thông và hệ thống cấp điện nước, thoát nước san nền. chưa đáp ứng được yêu cầu về kiến trúc, cảnh quan, ánh sáng, màu sắc, các thiết bị đô thị, các nhu cầu xã hội đô thị…mà QHCT hiện nay chưa đáp ứng.

Những yêu cầu này chỉ có thể giải quyết được bằng Thiết kế đô thị mới tạo ra được hình ảnh đô thị (3D) và sử dụng đất kết hợp hạ tầng (2D). Nhiều đồ án QHCT do các chủ đầu tư thuê các tư vấn quốc tế lập, phần lớn được thực hiện theo phương pháp lập thiết kế đô thị, mà trong đó đã lồng ghép hầu hết các yêu cầu của một đồ án QHCT (theo hệ thống QH Việt Nam hiện nay) nhưng khi trình phê duyệt đều phải thuê tư vấn Việt Nam làm lại hồ sơ cho phù hợp với quy định của Việt Nam về QHCT. Có thể nói đây là việc chưa hài hòa hóa phương pháp lập TKĐT và QHCT của các hệ thống quy hoạch giữa các quốc gia khác nhau.

Thiết kế đô thị tuy đã có quy trình lồng ghép từ QHC, QHPK và QHCT nhưng thực tế chưa đảm bảo nội dung, thiết kế sơ sài, chưa đủ cơ sở để xây dựng quy chế quản lý kiến trúc cảnh quan đô thị. Hiện nay, các đồ án TKĐT đều thiếu thông tin về các công trình kiến trúc dự kiến xây dựng vì TKĐT bên cạnh việc làm công cụ quản lý, đồng thời thực chất là các hồ sơ tài liệu cho các đồ án xây dựng của các dự án. Và TKĐT vẫn còn đang được làm thí điểm nhưng trong thực tế, đối với các dự án đầu tư do các tư vấn quốc tế lập bản chất đã là một đồ án TKĐT hoàn chỉnh (bao gồm cả các yếu tố trong QHCT).

Bên cạnh đó, quy hoạch chi tiết 1/500 thường xuyên được điều chỉnh theo hướng tăng diện tích kinh doanh, giảm diện tích công trình hạ tầng kỹ thuật – xã hội và cây xanh dẫn đến dự án sau được thực hiện không đảm bảo quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật xây dựng, thiếu trầm trọng diện tích cây xanh, mặt nước, công viên và các công trình phúc lợi công cộng.

3. Tồn tại trong hồ sơ đồ án quy hoạch đô thị

Hồ sơ bản vẽ QHĐT còn cồng kềnh bởi các bản vẽ thiết kế cụ thể chi tiết nhưng không có tính thực tiễn cao. QHC và QHPK chủ yếu sử dụng 02 bản đồ là sử dụng đất và giao thông, các bản vẽ về hạ tầng kỹ thuật ít được sử dụng, hiệu quả không cao.

Bản vẽ về đánh giá môi trường chiến lược, thông tin liên lạc gần như không được sử dụng. Bản vẽ tổng mặt bằng sử dụng đất được sử dụng nhiều tuy nhiên ký hiệu các loại đất chưa thống nhất với bản vẽ quy hoạch sử dụng đất của ngành tài nguyên, môi trường. Bản vẽ tổng hợp đường dây đường ống chỉ nên quy định ở quy hoạch chi tiết. Hồ sơ thiết kế đô thị còn khó khăn trong thực hiện.

4. Tồn tại trong quá trình thẩm định, phê duyệt và quản lý theo QH.

Quy trình lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch tuy đã có quy định về thời gian nhưng do yêu cầu chặt chẽ về các quy trình, các nội dung, thông số hay nhiều vấn đề phức tạp nên quy trình này dường như vẫn còn kéo dài, bên cạnh đó việc trình tự tuân thủ theo các bước từ Quy hoạch vùng đến Quy hoạch chung; Quy hoạch phân khu; Quy hoạch chi tiết sau đó mới đến các công tác khảo sát, thiết kế cho chuẩn bị đầu tư khiến thời gian kéo dài trong lúc cơ hội đầu tư lại không cho phép.

Một vòng đời quy hoạch để thực hiện quá trình này thường vừa đủ 5 năm và luật cho phép lại điều chỉnh và như vậy, các đồ án liên quan cũng lại cần điều chỉnh như một chu kỳ tất yếu, mất thời gian vật chất của xã hội, các nhà quản lý đô thị cũng khó quản lý khi trong tay có quá nhiều công cụ - đồ án quy hoạch liên quan, nhiều khi phải lựa ý định đầu tư để phù hợp với quy hoạch đã được duyệt.

Nếu Quy hoạch chung tính ổn định chưa cao rất có thể dẫn đến việc biến đổi rất nhiều các quy hoạch cấp nhỏ hơn khiến kế hoạch đầu tư có thể bị thay đổi.

ĐỀ XUẤT ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP, QUY TRÌNH, NỘI DUNG VÀ SẢN PHẨM ĐỔI MỚI QUY HOẠCH ĐÔ THỊ.

Trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác lập quy hoạch đô thị tại Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã tổng hợp kinh nghiệm về lập quy hoạch đô thị từ một số quốc gia phát triển như: Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Singapore, Australia, Nga, đồng thời đi khảo sát thực tiễn tại Nga và Nhật.

Nhóm nghiên cứu đã đúc kết một số loại hình và phương pháp quy hoạch đô thị cũng như xu thế đổi mới quy hoạch đô thị hiện nay trên thế giới, phân tích so sánh sự khác biệt với hệ thống quy hoạch tại Việt Nam.

Phương pháp lựa chọn phải thỏa mãn các vấn đề bất cập nêu trên của thực trạng phát triển đô thị và xu thế hội nhập trong tương lai. Một số phương pháp có thể tham khảo cho Việt Nam như: Quy hoạch có sự tham gia, Quy hoạch tích hợp, Quy hoạch cấu trúc/cấu trúc chiến lược, Quy hoạch chiến lược/chiến lược hợp nhất/kế hoạch hành động, quy hoạch tổng thể kiểu mới.

Về cơ bản phương pháp và hệ thống Quy hoạch đô thị tại Việt Nam đã ổn định và được quy định cụ thể trong các Điều tại các văn bản Quy phạm pháp luật về Quy hoạch đô thị. Các thành tố trong Mô hình Quy hoạch đô thị hiện nay (Phương pháp, Quy trình, Nội dung, Sản phẩm) cơ bản đã tiếp cận với thông lệ quốc tế và là những nhân tố tất yếu phải có trong Mô hình Quy hoạch đô thị.

Việc đề xuất mô hình quy hoạch đô thị đổi mới cho Việt Nam không nhất thiết phải nghiên cứu xây dựng Mô hình mới hoàn toàn với nội hàm thay đổi toàn bộ các thành tố tạo dựng lên mô hình. Do đó, đề xuất Mô hình Quy hoạch đô thị đổi mới cho Việt Nam sẽ là đổi mới nội hàm của các thành tố Phương pháp, Quy trình, Nội dung, Sản phẩm.

a. Đổi mới về phương pháp.

  1. Phương pháp lập QHĐT phải đảm bảo được tính thiết thực trong việc tham gia của tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư đối với QHĐT. Các mục tiêu của quy hoạch phải thật rõ ràng và dễ hiểu với tất cả các chủ thể thuộc khối nhà nước cũng như với các đối tác tư nhân. Quá trình đối thoại ở cấp đô thị cũng được coi là công việc quan trọng không kém gì so với chính nội dung đồ án. Các mục tiêu của đồ án phải được đưa vào một chiến dịch truyền thông đối với những đối tượng sẽ thực hiện đồ án đó.
  2. Phương pháp lập QHĐT theo hướng tiếp cận đa ngành, đảm bảo được sự tích hợp các đồ án quy hoạch ngành vào đồ án QHĐT bằng việc xây dựng bộ công cụ chuyển hóa nội dung của quy hoạch ngành vào QHĐT. Dựa trên công tác chuyển đổi số, hạ tầng ICT dưới góc độ đóng góp cho mô hình Đô thị thông minh hình thành trung tâm dữ liệu lớn (Big Data) bao gồm thông tin toàn diện về đô thị, các hệ thống bản đồ hiện trạng (theo các tỉ lệ) được cập nhật thường xuyên để chia sẻ đồng bộ cho các hoạt động liên quan từ xây dựng quy hoạch đô thị, tính toán dân số, đất đai, kinh tế đô thị, phát triển nhân lực...
  3. Xây dựng được bộ công cụ đánh giá hiện trạng mang tích logic khoa học với kết quả mang tính định lượng cao. Xây dựng phương pháp dự báo phát triển mang tính toàn diện, đầy đủ các công cụ nghiên cứu phân tích.
  4. Phương pháp lập quy hoạch theo hướng “Quy hoạch chiến lược và linh hoạt”, “Quy hoạch hành động”, “Quy hoạch mềm” nhằm làm rõ những nội dung cần phải thực hiện, lộ trình thực hiện, rõ trách nhiệm các bên, ứng phó hiệu quả với các biến động về kinh tế-xã hội. Đặc biệt phải đảm bảo tính chiến lược cho QHC, tránh tình trạng khi triển khai QHPK lại bất cập và lại điều chỉnh QHC, vẫn duy trì Tầm nhìn lâu dài.

b. Đổi mới về quy trình.

Cần rút ngắn quy trình 4 bước hiện nay theo hướng giảm bớt loại quy hoạch đô thị bằng cách tích hợp tối đa các cấp độ lập quy hoạch đô thị. Đề xuất xây dựng quy trình 2 bước như một số nước phát triển: Quy hoạch chiến lược và quy hoạch hành động. Quy hoạch tổng thể và Quy hoạch cụ thể.

Tuy nhiên với hệ thống đô thị Việt Nam có 06 loại đô thị từ loại đặc biệt đến loại 5. Xét về quy mô độ lớn của đô thị đề xuất đổi mới quy trình cụ thể đối với các loại đô thị như sau:

1. Quy trình đối với đô thị đặc biệt (gồm thủ đô Hà Nội và tp HCM – các thành phố có số dân dự báo khoảng 10 triệu)

Quy trình lập quy hoạch đô thị theo 03 bước.

- Bước 1: Lập Quy hoạch chung đô thị (bao gồm cả quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật).

- Bước 2: Lập Quy hoạch phân khu đô thị.

- Bước 3: Lập Thiết kế đô thị (Bước này gộp Quy hoạch chi tiết và Thiết kế đô thị riêng).

2. Quy trình đối với các đô thị còn lại (từ đô thị loại 1-5)

Quy trình lập quy hoạch đô thị theo 02 bước.

- Bước 1: Lập Quy hoạch chung đô thị (Quy hoạch chung đô thị và tích hợp những nội dung, chỉ tiêu cơ bản trong Quy hoạch phân khu).

- Bước 2: Lập Thiết kế đô thị (Bước này gộp Quy hoạch chi tiết đô thị và Thiết kế đô thị riêng).

c. Đổi mới về nội dung.

Nội dung QHĐT phải đảm bảo tính chiến lược, có tầm nhìn nhưng cũng phải sát nhu cầu, năng lực thật sự của đô thị, tránh dàn trải. Xác định được rõ nguồn lực thật sự theo quan điểm thị trường, dựa trên lợi ích của dân, hài hòa lợi ích của người dân - nhà đầu tư và Nhà nước.

Theo đó nội dung QHĐT phải phân định rõ vùng nào để phát triển đô thị theo hướng nén, tập trung; vùng nào dự trữ phát triển; vùng nào là đất nông nghiệp thì khoanh vùng lại và phải bảo vệ đất nông nghiệp đó, không cho phát triển tràn lan. Đến khi đô thị phát triển hết đất khu vực phát triển đô thị, có điều kiện để phát triển hạ tầng đến khu dự trữ, khu đất nông nghiệp thì mới tiếp tục quy hoạch ở khu đất nông nghiệp đã khoanh.

Trên cơ sở định hướng nêu trên sơ bộ đề xuất đổi mới về nội dung lập quy hoạch đô thị.

* Quy hoạch chung:

- Quy hoạch chung đô thị đặc biệt

+ Giảm thiểu những nội dung thiết kế và bản vẽ mang tính chi tiết cụ thể.

+ Mức độ nghiên cứu ở mức định khung hướng dẫn.

+ Tích hợp với các quy hoạch ngành. Tăng cường tính định hướng chiến lược (CDS), khẳng định cấu trúc, hình thái đô thị. Bổ sung nội dung về kinh tế đô thị, tài chính đô thị. Hoàn chỉnh DMC.

Quy hoạch chung đô thị còn lại (tích hợp nội dung của QHPK):

+ Tích hợp với các quy hoạch ngành. Tăng cường tính định hướng chiến lược, khẳng định cấu trúc, hình thái đô thị. Bổ sung nội dung về kinh tế đô thị, tài chính đô thị.

+ Định hình các chỉ tiêu phát triển đô thị mang tính mềm dẻo.

+ Mức độ nghiên cứu đến đơn vị ở.

+ Định rõ các phân khu phát triển. Xây dựng lộ trình thực hiện quy hoạch.

+ Hạ tầng kỹ thuật định hình những tuyến chính đô thị.

* Quy hoạch phân khu (Lập cho các đô thị đặc biệt):

- Định hình các chỉ tiêu phát triển đô thị mang tính mềm dẻo, sử dụng quy chuẩn và tiêu chuẩn làm cơ sở quản lý.

- Mức độ nghiên cứu đến đơn vị ở.

- Định rõ các phân khu phát triển. Xây dựng lộ trình thực hiện quy hoạch.

- Hạ tầng kỹ thuật định hình những tuyến chính đô thị.

* Thiết kế đô thị:

Lồng ghép nội dung của Quy hoạch chi tiết và thiết kế đô thị riêng. Đồng thời soạn lại nội dung sau khi tích hợp.

d. Đổi mới về sản phẩm.

  1. Khắc phục được tính xơ cứng của sản phẩm quy hoạch đô thị hiện nay, đảm bảo đủ linh hoạt để có thể đáp ứng các thay đổi của thực tiễn, tránh tình trạng thường xuyên điều chỉnh, giảm thiểu thời gian lập quy hoạch.
  2. Sản phẩm của quy hoạch đô thị cần trở thành những bản đồ hoặc sơ đồ định hướng tích hợp đa ngành và những kèm theo đó là những thuyết minh được giải trình cụ thể, chi tiết nội dung và cách thức thực hiện đồ án thay vì đưa ra những bản vẽ thiết kế cụ thể chi tiết nhưng không có tính thực tiễn cao như hiện nay.
  3. Hồ sơ, sản phẩm hướng tới giảm thiểu tính đơn năng, tăng cường tính đa năng trong phân bố các không gian, quy hoạch sử dụng đất của đô thị. Rút gọn, đơn giản các bản vẽ ở quy hoạch cấp cao (cấp chiến lược), đồng thời tăng cường nội dung chi tiết cho các bản vẽ ở quy hoạch cấp thấp (cấp hành động, hay còn gọi là dự án đầu tư). Quy định rõ mức độ nghiên cứu và thể hiện bản đồ ở mỗi loại hình QHĐT.
  4. Xây dựng lộ trình thẩm định phê duyệt bằng hồ sơ mềm kết hợp chuẩn hóa số lượng hồ sơ các loại đồ án và được quản lý bằng phần mềm theo hướng hiện đại.

NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ KIẾN NGHỊ

• Đóng góp về giá trị khoa học:

- Về Phương pháp luận quy hoạch: hướng tới Phương pháp QH hiện đại phù hợp với xu thế PTĐT ở Việt Nam trong những năm tới.

- Tập hợp các tài liệu về kinh nghiệm quy hoạch đô thị trên thế giới cho việc tham khảo, đào tạo…

- Lồng ghép những ưu điểm một số loại hình QHĐT trên thế giới vào công tác đổi mới QHĐT

- Về Nội dung QHC, khả năng tích hợp cao đáp ứng yêu cầu phát triển đô thị có sự tham gia các Ngành, người dân và doanh nghiệp thể hiện trong Tầm nhìn, các kịch bản phát triển, chiến lược phát triển cũng như cấu trúc Khung ><Linh hoạt trong phương pháp lập QHC ĐT. Áp dụng phương pháp Quy hoạch cấu trúc và chiến lược.

- Về Quy trình: lồng ghép các công đoạn QH (QHC + Phân khu) và (QHCT + TKĐT) làm rút ngắn thời gian lập các đồ án QH trước đây

• Đóng góp giá trị thực tiễn

- Về thời gian: rút ngắn khoảng 2 năm nghiên cứu và phê duyệt các đồ án từ QHC – Phân khu và QHCT (chưa tính TKĐT). Qua đó đẩy nhanh công đoạn từ ý tưởng ra thực tiễn thực hiện.

- Về tài chính: ước tính tiết kiệm khoảng 2000 tỷ chi phí cho các loại QHPK trước đây từ ngân sách. Bên cạnh đó, sẽ rút ngắn thời gian chờ đợi và giảm chi phí xã hội của doanh nghiệp khi thực hiện dự án đầu tư.

- Về cải cách hành chính: đảm bảo rút ngắn, tránh điều chỉnh QHPK do tác động của các dự án đầu tư. Tránh được cơ chế “xin – cho” trong quá trình điều chỉnh QHĐT và lập dự án đầu tư.

- Đảm bảo giữ được Tầm nhìn và Khung định hướng, đồng thời linh hoạt trong thực tiễn quản lý và đầu tư.

- Đáp ứng yêu cầu phát triển đồng thời kiểm soát phát triển cũng đảm bảo.

• Kiến nghị

Nội dung đổi mới phương pháp luận, mô hình đô thị đến quy trình lập quy hoạch đô thị, nội dung nghiên cứu, sản phẩm quy hoạch đã đảm bảo phù hợp với xu hướng chỉ đạo Chính phủ giảm bớt quy trình, thủ tục hành chính trong quản lý đô thị vừa đảm bảo khả năng lồng ghép trong quy hoạch, rút ngắn quy trình lập và phê duyệt quy hoạch, nhanh chóng đưa ý tưởng quy hoạch đô thị vào dự án đầu tư.

Hơn nữa, giảm chi phí đầu tư công, làm rõ trách nhiệm đầu tư của chính quyền hay tư nhân phát triển dự án. Tổng thời gian dự kiến rút gọn được khoảng 2-3 năm cho việc lập quy hoạch 4 bước sang 2 bước.

Bên cạnh đó vẫn kiểm soát một cách linh hoạt Tầm nhìn, định hướng chung (đã lồng ghép ngành) trong tương lai, tránh được việc điều chỉnh quá nhiều các quy hoạch – do các dự án phát triển có nhu cầu riêng, phù hợp với nhu cầu đầu tư và phát triển dự án cua chủ đầu tư.

Chính quyền đô thị kiểm soát các định hướng không gian cơ bản chứ không kiểm soát quá sâu vào từng chi tiết của các dự án phát triển thông qua các Quy định kèm đồ án (cần dùng quy chuẩn và tiêu chuẩn để kiểm soát). Đề tài cũng kiến nghị lồng ghép một số quy định trong Quy chế kiểm soát phát triển vào trong Quy định của đồ án Quy hoạch nhằm tăng cường tính pháp lý của Quy định này. Hiện nay Quy định quản lý kiến trúc cảnh quan cho Đồ án QHC Thủ đô Hà Nội vẫn đang được dùng khá hiệu quả trong quá trình kiểm soát phát triển đô thị ở Hà Nội.

Trong quá trình lập Tầm nhìn, lập khung phát triển có thể áp dụng các phương pháp lập quy hoạch đô thị theo hướng chiến lược ví dụ như Quy hoạch cấu trúc chiến lược, Quy hoạch ý tưởng (Conceptual Planning) hoặc Chiến lược phát triển đô thị…Các phương pháp này được khuyến khích áp dụng trong giai đoạn này nhằm phát huy tính ưu việt của các phương pháp nghiên cứu mang tính lồng ghép và linh hoạt.

Nhưng trong Quy hoạch chung đổi mới việc lồng ghép quy hoạch phân khu đã đảm bảo chức năng sử dụng đất, các khung giao thông và kết nối phát triển giữa các Khu vực phát triển đô thị đã được xác định nhằm quản lý phát triển một cách linh hoạt. Việc lồng ghép Qui hoạch chi tiết và thiết kế đô thị (thống nhất gọi là thiết kế đô thị) nhằm đảm bảo tính thống nhất về phương pháp/quy trình quy hoạch với các quốc gia phát triển vừa tăng tính hiệu quả của đồ án quy hoạch chi tiết hiện nay nặng về quy hoạch sử dụng đất mà thiếu phần nghiên cứu về không gian kiến trúc, cảnh quan đô thị. Đồng thời chính thức đưa thiết kế đô thị vào quy trình quy hoạch hiện nay nhằm hài hòa với thông lệ quy hoạch trên thế giới.

Tóm lại, việc đổi mới quy trình rút gọn và phương pháp lồng ghép chiến lược trong bối cảnh hiện nay đảm bảo tăng tính hiệu quả của công tác quản lý quy hoạch đô thị và đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư. Hơn nữa không làm thay đổi quá nhiều hệ thống văn bản pháp luật hiện hành cũng như cách thức lập quy hoạch đô thị hiện nay. Các nhà quản lý đô thị có thể dùng kiến thức hiện nay để quản lý đô thị, ra các quyết định thích hợp không mất thời gian thay đổi văn bản hướng dẫn. Khung đào tạo cho các cơ sở đào tạo về Quy hoạch đô thị cũng thuận lợi hơn, tính thích ứng với các phương pháp quy hoạch đô thị tiên tiến khác trên thế giới.

TS.KTS. Ngô Trung Hải
Tổng Thư ký Hiệp hội các đô thị Việt Nam

THAM KHẢO NGUỒN:

Đề tài nghiên cứu độc lập cấp Nhà nước về “Nghiên cứu đổi mới toàn diện công tác lập quy hoạch đô thị tại Việt Nam”, Ts Ngô Trung Hải – Nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch ĐTNTQG, Chủ nhiệm Đề tài (24/15-ĐTĐL.CN-CNN) cùng tập thể các chuyên gia quy hoạch thuộc Viện Quy hoạch Đô thị Nông thôn Quốc gia thực hiện. Đề tài đã được Nghiệm thu cấp Nhà nước và Lưu trữ tại Bộ KHCN.

Bạn đang đọc bài viết Đổi mới tư duy trong quản lý phát triển đô thị bền vững. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0912 345 014 Hoặc email: [email protected]

Cùng chuyên mục

“Thời” của căn hộ khách sạn nội đô
Những chính sách “cởi trói” cùng sự dịch chuyển của thị trường đang tạo đà cho phân khúc căn hộ khách sạn nội đô có nhiều dấu hiệu khởi sắc, trở thành “điểm dừng chân lý tưởng” cho các nhà đầu tư.

Tin mới

Bài thơ: Say
Khi say anh chợt nhớ em///Như bỏ viết lâu năm thèm hương báo mới////Khi cánh én nhớ Xuân về làm tổ///Chấp chới ánh đèn thèm nắng phút bình minh.
“Thời” của căn hộ khách sạn nội đô
Những chính sách “cởi trói” cùng sự dịch chuyển của thị trường đang tạo đà cho phân khúc căn hộ khách sạn nội đô có nhiều dấu hiệu khởi sắc, trở thành “điểm dừng chân lý tưởng” cho các nhà đầu tư.
Thỏa thuận cho vòng đời của nhựa
Vòng thứ tư của Ủy ban đàm phán liên chính phủ (INC-4) nhằm xây dựng một công cụ ràng buộc pháp lý quốc tế đầu tiên về ô nhiễm nhựa, bao gồm cả ô nhiễm trong môi trường biển, đang bước vào những cuộc họp chi tiết tại Ottawa, Canada.