Việc hòa giải tranh chấp đất đai được quy định tại Điều 202 Luật Đất đai 2013. Cụ thể, tại khoản 1 Điều 202 quy định “1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.”
Trong lúc hòa giải nguyên đơn đã tự ý bỏ về vì không đồng tình với hướng hòa giải. Vậy tôi hỏi có những căn cứ pháp lý để giải quyết tranh chấp đất đai trên? Các bên muốn đưa hồ sơ lên UBND huyện để giải quyết thì tôi phải làm gì?
Để phiên hòa giải tranh chấp đất đai được tiến hành thì các bên tranh chấp đất đai đều phải có mặt, nếu một trong các bên tranh chấp vắng mặt đến lần thứ hai thì được coi là việc hòa giải không thành.
Thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai, thì hòa giải UBND xã là bắt buộc. Nếu Ông/Bà đã nộp đơn hòa giải lên UBND xã mà không hòa giải được, thì Ông/Bà có thể tiếp tục nộp đơn lên UBND cấp huyện hoặc Tòa án nhân dân nơi có đất đó để được giải quyết.
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 thì tranh chấp đất đai được hiểu là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai.
Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí.
Theo nguyên tắc của pháp luật dân sự thì Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở
Mặc dù, công tác quản lý đất đai có nguồn gốc nông, lâm trường trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, tuy nhiên việc quản lý sử dụng vẫn còn tồn tại nhiều bất cập.
Theo đơn kiến nghị gửi tòa soạn Môi trường và Đô thị Việt Nam điện tử của ông Khóa, mảnh đất này được mua của ông Đặng Văn Thành (chú ruột của ông Khóa) từ năm 2009.
"Ở huyện Quốc Oai này tranh chấp đất đai có sổ đỏ nhiều lắm. Tới đây nó còn loạn cả chuyện sổ đỏ cấp sai rất là nhiều", Chủ tịch UBND xã Tuyết Nghĩa nói.