Thứ sáu, 26/04/2024 09:20 (GMT+7)

Bẫy dây đang tận diệt các khu rừng Đông Nam Á

MTĐT -  Thứ sáu, 24/07/2020 17:46 (GMT+7)

Theo dõi MTĐT trên

WWF đã đưa ra cảnh báo một cuộc khủng hoảng bẫy dây đang tàn sát các loài hoang dã tại khu vực Đông Nam Á và làm tăng nguy cơ lây truyền dịch bệnh bắt nguồn từ động vật sang người.

Trong một báo cáo mới đây, WWF đã đưa ra cảnh báo một cuộc khủng hoảng bẫy dây đang tàn sát các loài hoang dã tại khu vực Đông Nam Á và làm tăng nguy cơ lây truyền dịch bệnh bắt nguồn từ động vật sang người.

Báo cáo này cũng ước tính con số bẫy dây đặt trong các khu bảo tồn của các quốc gia trong khu vực.

Theo báo cáo Sự im lặng của những chiếc bẫy dây: Khủng hoảng đặt bẫy dây ở Đông Nam Á, ước tính có khoảng 12,3 triệu bẫy dây đang đe doạ các loài động vật hoang dã trong các khu bảo tồn ở Cam-pu-chia, Lào và Việt Nam, những quốc gia có nạn đặt bẫy nghiêm trọng nhất trong khu vực.

Những chiếc bẫy thô sơ này, thường được làm từ dây phanh xe đạp hay dây cáp, làm tăng tần suất tiếp xúc giữa người và các loài hoang dã, do đó tăng nguy cơ lan truyền các bệnh truyền nhiễm bắt nguồn từ động vật sang người.

Các nhà nghiên cứu đã xác định rất nhiều loài mục tiêu của hoạt động đặt bẫy, như lợn rừng, cầy, và tê tê, thuộc nhóm các loài có nguy cơ cao mang các bệnh truyền nhiễm.

Ông Stuart Chapman, người đứng đầu Sáng kiến Tigers Alive của WWF chia sẻ: “Các bẫy thú này đang gây ra sự chết chóc khủng khiếp cho các loài hoang dã, quét sạch bóng dáng của chúng khỏi những khu rừng, từ hổ đến voi, cầy vòi hương và tê tê. Nếu chính phủ các quốc gia Đông Nam Á không khẩn trương hành động, những loài động vật hoang dã này sẽ không có cơ hội tồn tại”.

“Nạn đặt bẫy chính là mối đe doạ hàng đầu đối với loài hổ trong khu vực. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến việc loài hổ được coi là đã tuyệt chủng ở Cam-pu-chia, Lào và Việt Nam. Nếu không có những biện pháp quyết liệt, nạn đặt bẫy thú sẽ dẫn đến một làn sóng tuyệt chủng ở khắp các quốc gia châu Á”, ông Stuart Chapman nhấn mạnh.

Để đáp ứng nhu cầu sử dụng thịt thú rừng làm món ăn đặc sản trong khu vực đô thị, việc đặt bẫy đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới hơn 700 loài thú bao gồm những loài đang có nguy cơ tuyệt chủng cao như voi châu Á, hổ, sao la và bò rừng.

Khi mắc bẫy, động vật phải chịu đau đớn vài ngày hoặc hàng tuần trước khi chết bởi các vết thương, và, rất hiếm khi, nếu chúng có thể thoát khỏi bẫy thì chúng cũng chết bởi các vết thương hoặc do nhiễm trùng.

Belum-Temengor, Malaysia, là một trong số ít những khu bảo tồn hổ quan trọng nhất của Đông Nam Á, từ năm 2009 - 2018, đã mất đi 50% số lượng quần thể hổ chủ yếu do bị đặt bẫy tràn lan.

Bà Sophia Lim, Giám đốc Điều hành của WWF Malaysia chia sẻ: “Chỉ tháo dỡ các bẫy thôi thì chưa đủ. Chính phủ các quốc gia Đông Nam Á phải tăng cường thực thi luật pháp, cải thiện hệ thống pháp luật để ngăn chặn đặt bẫy một cách hiệu quả và quan trọng hơn là kêu gọi sự tham gia của người dân bản địa và các cộng đồng địa phương trong cuộc chiến này".

Cần có những hành động cấp bách để giải quyết mối đe dọa này đối với các loài hoang dã, các hệ sinh thái và sức khỏe cộng đồng. Chính phủ các nước cần phải ngăn chặn việc mua bán, vận chuyển và tiêu thụ các loài động vật hoang dã có nguy cơ lây truyền dịch bệnh sang người cao, bao gồm hầu hết loài móng guốc và các loài động vật ăn thịt - mục tiêu chính của các hoạt động đặt bẫy.

Để các biện pháp này đạt được thành công, cả khu vực cũng cần tập trung hơn vào việc tăng cường quản lý các khu bảo tồn.

Theo báo Nhân dân, tại Việt Nam, chỉ riêng trong hai Khu bảo tồn Sao la tỉnh Thừa Thiên - Huế và tỉnh Quảng Nam, đã có 127.857 bẫy thú được tháo gỡ trong giai đoạn năm 2011-2019, trung bình mỗi năm tháo gỡ được 14.206.

Mật độ bẫy tại Khu bảo tồn Sao la tỉnh Thừa Thiên - Huế và Quảng Nam là 880 bẫy/km2, cao nhất trong khu vực.

Số lượng bẫy ước tính tại Việt Nam, tại bất kỳ một thời điểm nào, là hơn năm triệu bẫy, dựa trên mật độ bẫy ước tính trong khu bảo tồn là 110,7 bẫy/km2 với số liệu được coi như tương đồng giữa tất cả các khu bảo tồn. 

Tại Việt Nam, thịt của các loại động vật hoang dã quý hiếm như tê tê hay hổ là mặt hàng xa xỉ dành cho những người giàu có, trong khi phần lớn động vật ăn thịt và động vật móng guốc nhỏ được tầng lớp trung lưu xem như đặc sản. Khảo sát cho thấy nhiều người dân sống tại các đô thị của Việt Nam (20-80% tùy vào địa điểm) sử dụng các sản phẩm từ thịt động vật hoang dã ít nhất một lần mỗi năm.

60-80% việc sử dụng thịt động vật hoang dã là ở các nhà hàng tại các trung tâm đô thị. Loài được tiêu thụ nhiều nhất, chiếm gần 75% tổng lượng tiêu thụ, là lợn rừng.

Lợn rừng, được tiêu thụ phổ biến tại Việt Nam, đã được chứng minh là loài mang nhiều mầm bệnh lây truyền nhất trong tất cả các loài được buôn bán tại thị trường châu Á, bao gồm cúm lợn, virus Rota gây ra các bệnh như tiêu chảy và virus Hepatitis E.

Cầy vòi mốc được xác định là vật chủ trung gian gây ra bệnh SARS ở người, và cầy thường bị bẫy và gây nuôi để cung cấp cho thị trường tiêu thụ tại Việt Nam.

Dịch cúm gia cầm ghi nhận ca bệnh đầu tiên tại Việt Nam vào cuối năm 2003 và nhanh chóng lan sang Thái Lan, Campuchia, Indonesia, Lào và Malaysia.

Chuột và các loài động vật gặm nhấm khác, được tiêu thụ phổ biến tại Việt Nam, đặc biệt ở vùng đồng bằng, là vật chủ mang virus Hanta gây ra hội chứng sốt xuất huyết kèm theo suy thận (HFRS); virus lymphocytic choriomeningitis (LCMV) gây ra bệnh viêm màng não vô trùng, viêm não và viêm màng não; và virus bệnh dại, tất cả những virus này có thể lây truyền trực tiếp giữa động vật gặm nhấm và người.

Các cuộc phỏng vấn với 16 thợ săn người Cơ Tu tại Việt Nam cho thấy hơn một nửa trong số này (9 người) đặt bẫy để kiếm thêm thu nhập, không phải để cung cấp thực phẩm cho bản thân họ.

Các cuộc khảo sát về kinh tế-xã hội tại các cộng đồng sống xung quanh ba khu bảo tồn của Trung Trường Sơn cho thấy khoảng 25%-33% làng bản chủ yếu dùng bẫy để săn bắt thú, không phải vì thức ăn hay để tồn tại mà đó là nguồn thu nhập chủ yếu của gần 40% người sống bằng nghề đi săn.

Theo báo Nhân dân, tại Việt Nam, chỉ riêng trong hai Khu bảo tồn Sao la tỉnh Thừa Thiên - Huế và tỉnh Quảng Nam, đã có 127.857 bẫy thú được tháo gỡ trong giai đoạn năm 2011-2019, trung bình mỗi năm tháo gỡ được 14.206.

Mật độ bẫy tại Khu bảo tồn Sao la tỉnh Thừa Thiên - Huế và Quảng Nam là 880 bẫy/km2, cao nhất trong khu vực.

Số lượng bẫy ước tính tại Việt Nam, tại bất kỳ một thời điểm nào, là hơn năm triệu bẫy, dựa trên mật độ bẫy ước tính trong khu bảo tồn là 110,7 bẫy/km2 với số liệu được coi như tương đồng giữa tất cả các khu bảo tồn. 

Tại Việt Nam, thịt của các loại động vật hoang dã quý hiếm như tê tê hay hổ là mặt hàng xa xỉ dành cho những người giàu có, trong khi phần lớn động vật ăn thịt và động vật móng guốc nhỏ được tầng lớp trung lưu xem như đặc sản. Khảo sát cho thấy nhiều người dân sống tại các đô thị của Việt Nam (20-80% tùy vào địa điểm) sử dụng các sản phẩm từ thịt động vật hoang dã ít nhất một lần mỗi năm.

60-80% việc sử dụng thịt động vật hoang dã là ở các nhà hàng tại các trung tâm đô thị. Loài được tiêu thụ nhiều nhất, chiếm gần 75% tổng lượng tiêu thụ, là lợn rừng.

Lợn rừng, được tiêu thụ phổ biến tại Việt Nam, đã được chứng minh là loài mang nhiều mầm bệnh lây truyền nhất trong tất cả các loài được buôn bán tại thị trường châu Á, bao gồm cúm lợn, virus Rota gây ra các bệnh như tiêu chảy và virus Hepatitis E.

Cầy vòi mốc được xác định là vật chủ trung gian gây ra bệnh SARS ở người, và cầy thường bị bẫy và gây nuôi để cung cấp cho thị trường tiêu thụ tại Việt Nam.

Dịch cúm gia cầm ghi nhận ca bệnh đầu tiên tại Việt Nam vào cuối năm 2003 và nhanh chóng lan sang Thái Lan, Campuchia, Indonesia, Lào và Malaysia.

Chuột và các loài động vật gặm nhấm khác, được tiêu thụ phổ biến tại Việt Nam, đặc biệt ở vùng đồng bằng, là vật chủ mang virus Hanta gây ra hội chứng sốt xuất huyết kèm theo suy thận (HFRS); virus lymphocytic choriomeningitis (LCMV) gây ra bệnh viêm màng não vô trùng, viêm não và viêm màng não; và virus bệnh dại, tất cả những virus này có thể lây truyền trực tiếp giữa động vật gặm nhấm và người.

Các cuộc phỏng vấn với 16 thợ săn người Cơ Tu tại Việt Nam cho thấy hơn một nửa trong số này (9 người) đặt bẫy để kiếm thêm thu nhập, không phải để cung cấp thực phẩm cho bản thân họ.

Các cuộc khảo sát về kinh tế - xã hội tại các cộng đồng sống xung quanh ba khu bảo tồn của Trung Trường Sơn cho thấy khoảng 25%-33% làng bản chủ yếu dùng bẫy để săn bắt thú, không phải vì thức ăn hay để tồn tại mà đó là nguồn thu nhập chủ yếu của gần 40% người sống bằng nghề đi săn.

P.V(tổng hợp)

Bạn đang đọc bài viết Bẫy dây đang tận diệt các khu rừng Đông Nam Á. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0912 345 014 Hoặc email: [email protected]

Cùng chuyên mục

Long An: Sử dụng tài nguyên nước hợp lý
Được sự quan tâm lãnh, chỉ đạo thường xuyên của lãnh đạo các cấp, công tác quản lý tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh ngày càng đi vào nề nếp, được sử dụng hợp lý, hiệu quả.

Tin mới

Bài thơ: Say
Khi say anh chợt nhớ em///Như bỏ viết lâu năm thèm hương báo mới////Khi cánh én nhớ Xuân về làm tổ///Chấp chới ánh đèn thèm nắng phút bình minh.
“Thời” của căn hộ khách sạn nội đô
Những chính sách “cởi trói” cùng sự dịch chuyển của thị trường đang tạo đà cho phân khúc căn hộ khách sạn nội đô có nhiều dấu hiệu khởi sắc, trở thành “điểm dừng chân lý tưởng” cho các nhà đầu tư.
Thỏa thuận cho vòng đời của nhựa
Vòng thứ tư của Ủy ban đàm phán liên chính phủ (INC-4) nhằm xây dựng một công cụ ràng buộc pháp lý quốc tế đầu tiên về ô nhiễm nhựa, bao gồm cả ô nhiễm trong môi trường biển, đang bước vào những cuộc họp chi tiết tại Ottawa, Canada.