Chủ nhật, 28/04/2024 22:32 (GMT+7)

Thực trạng và định hướng phát triển hạ tầng đô thị xanh tại Việt Nam

MTĐT -  Thứ hai, 12/12/2022 08:48 (GMT+7)

Theo dõi MTĐT trên

Trong những năm qua, với chính sách đổi mới, hội nhập cùng sự tăng trưởng cao của nền kinh tế đất nước, hệ thống đô thị của Việt Nam đã phát triển nhanh chóng về số lượng và quy mô, chất lượng cuộc sống của người dân đô thị từng bước được cải thiện.

Tính đến hết tháng 10/2022, hệ thống đô thị toàn quốc có 888 đô thị, trong đó có 02 đô thị loại đặc biệt, 22 đô thị loại I, 33 đô thị loại II, 47 đô thị loại III, 94 đô thị loại IV và các đô thị loại V. Tỷ lệ đô thị hóa cả nước hiện ước đạt khoảng 41%.

Ðô thị đã và đang khẳng định vai trò là động lực phát triển kinh tế, là hạt nhân thúc đẩy chuyển dịch kinh tế, cơ cấu lao động ở mỗi địa phương, mỗi vùng và cả nước. Tuy nhiên, đô thị hóa, thách thức của biến đổi khí hậu (BĐKH) đang tác động mạnh đến chất lượng cuộc sống người dân và sự phát triển bền vững của đô thị, đặc biệt đối với hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị.

Ngày 24/01/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW về Quy hoạch, xây đựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với một số mục tiêu “nâng cao chất lượng đô thị hoá, phát triển đô thị bền vững” và “Kết cấu hạ tầng của đô thị, nhất là hạ tầng kỹ thuật khung và hạ tầng xã hội thiết yếu được xây dựng và phát triển đồng bộ, hiện đại”.

Cùng với đó, ngày 01/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn 2050, nhằm thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, trong đó xác định phát triển kết cấu hạ tầng xanh, bền vững là một nội dung định hướng chiến lược, và giao Bộ Xây dựng thực hiện phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị xanh, thông minh. 

Ngày 22/7/2022 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 882/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030 với 18 chủ đề, 57 nhóm nhiệm vụ, hoạt động và 134 nhiệm vụ, hoạt động cụ thể. Đối với lĩnh vực xây dựng gồm 4 nhóm nhiệm vụ, hoạt động với 13 nhiệm vụ, hoạt động cụ thể. Trong đó, nhiệm vụ 11.2 là “Xây dựng quy hoạch, nghiên cứu ứng dụng công nghệ và phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị theo hướng hạ tầng xanh, hạ tầng thông minh, có năng lực chống chịu với biến đổi khí hậu và thiên tai, đa thiên tai, ít có khả năng triệt tiêu hoặc cản trở các lựa chọn giải pháp giảm nhẹ (giảm phát thải) khác trong tương lai.”.

Theo các nhiệm vụ được giao, việc xây dựng, quản lý và phát triển cơ sở hạ tầng đô thị xanh, an toàn và bền vững cần được quan tâm, tiếp cận. Đây là xu hướng phát triển bền vững đô thị của Việt Nam và thế giới.

Khái niệm “hạ tầng xanh” còn tương đối mới trong quản lý đô thị, cả ở Việt Nam và nhiều nước đang phát triển trên thế giới. Đó là mạng lưới các thành tố ‘xanh’ được bảo tồn, tăng cường, hoặc thiết lập mới nhằm giải quyết các vấn đề của đô thị hóa dựa trên cách tiếp cận “xây dựng cùng thiên nhiên”...

Các thành phần chính của cách tiếp cận này bao gồm quản lý nước mưa, thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhiệt, đa dạng sinh học, sản xuất năng lượng, chất lượng không khí, nước sạch, giao thông thông minh, cùng các chức năng hạ tầng xã hội như tăng chất lượng sống thông qua cung cấp không gian xanh cho hoạt động giải trí, nghỉ ngơi, cung cấp bóng mát và tạo đặc trưng cảnh quan…

tm-img-alt
Cải tạo công viên kết hợp thoát nước chống ngập tại Bangkok, Thái Lan

Dưới góc độ quản lý, Chính phủ Việt Nam cũng đã tiếp cận, quan tâm đến các vấn đề phát triển hạ tầng đô thị bền vững thông qua các văn bản quy phạm pháp luật như Luật Quy hoạch đô thị, Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ môi trường, Luật đa dạng sinh học,…các văn bản hướng dẫn và hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn về quy hoạch, xây dựng đô thị, hạ tầng kỹ thuật,… Đồng thời, Việt Nam cũng chủ động tham gia ký kết Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu nhằm chủ động, hợp tác thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc.

Tuy nhiên, phát triển hạ tầng đô thị xanh, an toàn và bền vững còn tương đối mới, cần có những nghiên cứu, tiếp cận và chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức của các quốc gia, chính quyền đô thị, các cơ quan, tổ chức trên thế giới để có thể triển khai, áp dụng tại Việt Nam, cả dưới góc độ chính sách, quy hoạch, quy chuẩn, tiêu chuẩn, kinh nghiệm quản lý đến khoa học công nghệ, tài chính, con người…

Thực hiện chức năng quản lý về lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật, bao gồm: cấp nước, thoát nước, giao thông đô thị, công viên – cây xanh, công trình ngầm,… Thời gian qua, Bộ Xây dựng đã chủ động, phối hợp với các cơ quan, đơn vị trong và ngoài nước, các địa phương tổ chức tốt các công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực được giao với một số kết quả cơ bản.

1. Khái quát về thực trạng quản lý phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị 

Cùng với sự tăng trưởng cả về số lượng và quy mô các đô thị tại Việt Nam trong gia đoạn vừa qua, hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị đã và đang được nhà nước quan tâm cải tạo và đầu tư xây dựng mới. Các chỉ tiêu về hạ tầng kỹ thuật đô thị đã được cải thiện đáng kể góp phần quan trọng nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư đô thị.

- Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quy hoạch, đầu tư xây dựng và khai thác quản lý vận hành hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị đã được chú ý, hoàn thiện phù hợp giai đoạn phát triển, tạo cơ sở cho quản lý phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị. Nội dung quy định trong các văn bản cơ bản đã được làm rõ và thống nhất, giúp điều chỉnh các mối quan hệ trong quản lý và đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật giữa Nhà nước, người dân và doanh nghiệp, tạo môi trường pháp lý thuận lợi hơn cho phát triển hạ tầng kỹ thuật đồng bộ.

- Công tác quy hoạch: Quy hoạch kết cấu hạ tầng đô thị được thực hiện theo quy định của Luật Quy hoạch đô thị. Theo đó ngoài 5 đô thị trực thuộc Trung ương phải lập riêng đồ án quy hoạch hạ tầng, các đô thị còn lại hệ thống hạ tầng được quy hoạch lồng ghép trong các đồ án quy hoạch đô thị. Trong các đồ án quy hoạch đô thị, nội dung hạ tầng kỹ thuật cũng đã từng bước được chú ý và đến nay việc thực hiện cơ bản đáp ứng được yêu cầu theo quy định. 

Thực trạng phát triển một số chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật:

- Về hạ tầng giao thông đô thị: Hệ thống giao thông tại các đô thị lớn được các cấp từ trung ương đến địa phương chú ý, tập trung nhiều nguồn lực để  phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu giao thông đô thị. Tại các đô thị lớn, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, hệ thống đường chính đô thị được tập trung đầu tư xây dựng. Nhiều đoạn đường vành đai, trục xuyên tâm và các điểm đầu mối giao thông đối ngoại, các nút giao thông trọng điểm đã được xây dựng giúp cải thiện tình trạng ùn tắc và tai nạn giao thông đô thị. Các công trình đường sắt đô thị đang được đầu tư xây dựng, một số tuyến dự kiến sẽ đưa vào khai thác trong thời gian tới. Tỷ lệ đất giao thông trên đất xây dựng đô thị dao động trong khoảng từ 10% đến trên 20%, trong đó tỷ lệ đất dành cho bến bãi đỗ xe hầu hết đạt dưới 1%. Tại hai đô thị đặc biệt, tỷ lệ đất dành cho giao thông đô thị trên đất xây dựng đô thị tại Hà Nội khoảng 10%, TP. Hồ Chí Minh hiện đạt trên 9%. Tỷ lệ đảm nhận vận chuyển hành khách công cộng tại Thủ đô Hà Nội khoảng 15%, thành phố Hồ Chí Minh 10%, 

- Về hạ tầng cấp nước: Nước là nhu cầu thiết yếu đối với đời sống sinh hoạt, sản xuất của người dân. Hạ tầng cấp nước được Chính phủ, chính quyền các địa phương đặc biệt quan tâm trong các giai đoạn phát triển. Đến nay, cả nước có trên 750 hệ thống cấp nước đô thị với tổng công suất cấp nước theo thiết kế đạt khoảng 11,6 triệu m3/ngđ (tăng 5,4 triệu m3/ngđ so với năm 2010); Tỷ lệ dân cư đô thị được cung cấp nước qua hệ thống cấp nước tập trung đạt 92% (tăng 16% so với năm 2010); Tỷ lệ thất thoát thất thu nước sạch giảm xuống còn khoảng 17% (giảm 13% so với năm 2010). Các nhà máy nước khai thác sử dụng nguồn nước mặt chiếm khoảng 70% tổng nguồn nước và 30% còn lại là khai thác sử dụng nước ngầm.

- Về hạ tầng thu gom, xử lý chất thải rắn: Tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị hiện đạt khoảng 91%. Việc đầu tư xây dựng các cơ sở chất thải rắn để đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường đã được các địa phương quan tâm, thúc đẩy đầu tư, tuy nhiên việc triển khai còn chậm. Đến nay, cả nước có khoảng 50 cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị tập trung với tổng công suất thiết kế khoảng gần 9.500 tấn/ngày được đầu tư xây dựng đưa vào hoạt động (chiếm gần 30% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom).

- Về hạ tầng thoát nước và xử lý nước thải: Mạng lưới thoát nước chủ yếu vẫn là mạng lưới thoát nước chung nước thải và nước mưa, được đầu tư qua nhiều thời kỳ khác nhau; nhiều tuyến cống xuống cấp, khả năng tiêu thoát kém. Hệ thống này hiện mới chỉ đáp ứng bình quân khoảng 64% nhu cầu thoát nước của các đô thị. Trên cả nước có khoảng 71 nhà máy xử lý nước thải đô thị tập trung đã đi vào vận hành với tổng công suất thiết kế khoảng 1,38 triệu m3/ngđ. Tỷ lệ thu gom xử lý nước thải mới chỉ đạt khoảng 15%.

- Về hạ tầng chiếu sáng đô thị: Công tác chiếu sáng đã cơ bản đáp ứng được các hoạt động của đô thị. Tại các đô thị lớn, hệ thống chiếu sáng hiệu quả, tiết kiệm năng lượng đang được đầu tư xây dựng và khai thác sử dụng, chiếu sáng cảnh quan cũng đã được chú ý góp phần nâng cao mỹ quan đô thị vào ban đêm. Tại các đô thị đặc biệt, 100% các tuyến đường chính, 90% các tuyến đường nhánh đã được chiếu sáng.

tm-img-alt
Công viên Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

- Về hệ thống công viên, cây xanh đô thị: nhiều địa phương, đô thị đã quan tâm đến công tác trồng, chăm sóc và phát triển cây xanh đô thị, góp phần tạo cảnh quan, không gian xanh và cải thiện môi trường môi trường đô thị. Tỷ lệ đất cây xanh công cộng tại một số đô thị: Hà Nội 2,06m2/người; TP.Hồ Chí Minh 0,55m2/người; Đà Nẵng 2,4m2/người; Hải Phòng 3,41m2/người... trong khi quy chuẩn quy hoạch yêu cầu từ 6-7m2/người. Tỷ lệ đất cây xanh toàn đô thị: Đà Nẵng khoảng 7-7,5m2/người; TP.Huế 12,9m2/người, TP.Vinh 10,5m2/người, Tp. Vũng Tàu 10m2/người, Tp. Nam Định 5,39m2/người (Quy chuẩn là từ 7-15m2/người đối với các đô thị từ loại V đến đặc biệt).

Về số lượng cây xanh đô thị (thân gỗ lớn, cây bóng mát) hiện chưa có thống kê đầy đủ, tuy nhiên tại một số đô thị lớn đã có những chương trình, đề án phát triển cây xanh như Hà Nội trồng 1 triệu cây xanh; tại một số đô thị như Đà Nẵng khoảng 350 nghìn cây (năm 2015), Tp. Hồ Chí Minh khoảng 236 nghìn cây (theo số liệu quản lý của các đơn vị trên địa bàn, năm 2019), Tp. Vũng Tàu khoảng 38 nghìn cây, Tp. Huế hơn 65 nghìn cây, Tp. Quy Nhơn khoảng 54 nghìn cây, các đô thị tỉnh Bình Phước khoảng 43 nghìn cây...

2. Các vấn đề đặt ra trong công tác quản lý phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị tại Việt Nam

Về tổng thể, năng lực hệ thống hạ tầng chưa đáp ứng nhu cầu của người dân và các hoạt động kinh tế đô thị, đặc biệt đối với hạ tầng giao thông, thu gom và xử lý chất thải rắn, thoát nước và xử lý nước thải. Quy hoạch phát triển các lĩnh vực kết cấu hạ tầng đô thị chưa đáp ứng yêu cầu, còn thiếu tính đồng bộ. Trình độ, năng lực quản lý đô thị còn yếu. Còn tình trạng ùn tắc giao thông, thiếu nước sinh hoạt, ngập úng cục bộ tại khu vực nội thành. Ô nhiễm môi trường còn nhiều bức xúc, xử lý chất thải, cấp, thoát nước và tình trạng ngập úng tại các thành phố lớn được xử lý chậm.

- Công tác hoàn thiện thể chế: Tính đồng bộ trong việc triển khai dự thảo và ban hành các văn bản hướng dẫn dưới luật trong tổng thể hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Luật còn chưa cao. Các văn bản pháp luật đã được ban hành tương đối đầy đủ, nhưng khả năng áp dụng trong thực tế còn nhiều hạn chế. Chưa có cơ chế, chính sách ưu đãi đủ mạnh để khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân tham gia đầu tư hệ thống hạ tầng kỹ thuật

- Công tác quy hoạch: Việc tổ chức thực hiện quy hoạch hạ tầng kỹ thuật ở các địa phương còn chậm, nguồn lực thực hiện hạn chế. Năng lực của một số chủ thể liên quan (chính quyền địa phương, đơn vị tư vấn lập quy hoạch, chủ đầu tư dự án) chưa đáp ứng yêu cầu.

Chất lượng của công tác quy hoạch chưa cao, công tác dự báo còn chưa phù hợp với thực tế, yếu tố liên kết vùng, tỉnh đôi khi còn bị xem nhẹ, nội dung kế hoạch thực hiện trong các đồ án quy hoạch còn thiếu hoặc rất thiếu tính khả thi. Khái niệm, cách tiếp cận, các quy định pháp luật, quy chuẩn, tiêu chuẩn về quy hoạch hạ tầng xanh chưa được xác định và tích hợp như một hợp phần quy hoạch không gian. 

- Công tác đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật:

+ Nguồn lực đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật nói chung còn hạn chế, chủ yếu vẫn dựa vào nguồn ngân sách; chưa có cơ chế phù hợp để thu hút, huy động nguồn lực xã hội cho đầu tư hạ tầng.

+ Cơ chế, chính sách về bồi thường, giải phóng mặt bằng, các chính sách ưu tiên, ưu đãi phát triển hạ tầng kỹ thuật chưa thực sự phù hợp với thực tế. Việc chấp hành pháp luật trong giải phóng mặt bằng chưa nghiêm làm cho đầu tư kéo dài, lãng phí, hiệu quả thấp 

+ Phát triển hạ tầng thiếu điều phối, gắn kết. Kế hoạch đầu tư trung hạn và hàng năm chưa gắn kết với quy hoạch, dẫn tới việc đầu tư dàn trải, không đảm bảo đầu tư đồng bộ giữa nhà ở, khu đô thị, trụ sở… với hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội.

+ Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng vẫn liên tục tăng nhưng tỷ trọng so với tổng đầu tư xã hội có xu hướng giảm và chủ yếu vẫn dựa vào nguồn ngân sách. Nguồn hỗ trợ ODA ngày càng giảm khi GDP trên đầu người của nước ta vượt ngưỡng thu nhập mà nhà tài trợ quy định và việc huy động vốn từ khu vực tư nhân còn gặp nhiều khó khăn. Quy định về đầu tư lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật theo hình thức đối tác công tư chưa cụ thể và hoàn thiện.

+ Công tác quản lý vận hành hệ thống hạ tầng đô thị chưa hiệu quả, chưa dành tỷ lệ vốn thích đáng cho công tác bảo trì, bảo dưỡng hệ thống, tình trạng xuống cấp tiếp tục diễn ra; trình độ, năng lực quản lý, vận hành, bảo dưỡng còn yếu, không đáp ứng được sự phức tạp của hệ thống, chưa theo đúng yêu cầu kỹ thuật.

3. Yêu cầu đặt ra và giải pháp thực hiện

3.1. Yêu cầu đặt ra tại Nghị quyết số 06-NQ/TW

Phát triển đô thị có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển chung của nền kinh tế - xã hội nước ta, do vậy Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24 tháng 01 năm 2022 về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị việt nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó về quan điểm chỉ đạo, Bộ Chính trị đã đặt ra nhiệm vụ phát triển kết cấu hạ tầng các đô thị phải đi trước một bước và tạo ra nguồn lực chủ yếu cho phát triển đô thị.

- Tỉ lệ đất giao thông trên đất xây dựng đô thị đạt khoảng 11 - 16% vào năm 2025, 16 - 26% vào năm 2030. Diện tích cây xanh bình quân trên mỗi người dân đô thị đạt khoảng 6-8 m2 vào năm 2025, khoảng 8 - 10 m2 vào năm 2030. 

- Về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu: Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật,  sớm xây khung pháp lý cho phát triển đô thị thông minh, quản lý hạ tầng kỹ thuật đô thị và không gian ngầm đô thị; Tổ chức quy hoạch, xây dựng hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, khu công cộng, quy hoạch quản lý sử dụng không gian nối, không gian ngầm và hệ thống công trình ngầm đô thị; Đẩy mạnh phát triển hệ thống hạ tầng đô thị đồng bộ, hiện đại, liên kết, thích ứng với biến đổi khí hậu. 

- Xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình đầu tư phát triển hạ tầng đô thị đến năm 2030. Tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng hoàn chỉnh hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế và kỹ thuật diện rộng, hạ tầng số. Đầu tư khép kín các đường vành đai, đường xuyên tâm, hệ thống giao thông công cộng đồng bộ có sức chở lớn, bến, bãi đỗ xe tại các đô thị.

Tăng cường khai thác sử dụng hệ thống không gian ngầm, công trình ngầm đô thị, không gian đa chức năng của đô thị. Triển khai đồng bộ, quyết liệt việc phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn, thúc đẩy giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế chất thải rắn sinh hoạt tại các đô thị: phát huy công nghệ hiện đại trong tái chế rác thải. Xây dựng lộ trình và giải pháp khả thi hạn chế xe cá nhân, nhất là xe máy tại các đô thị lớn. Xây dựng đồng bộ về hạ tầng và ban hành các chính sách ưu đãi để khuyến khích sử dụng phương tiện giao thông thân thiện với môi trường tại đô thị.

3.2. Mục tiêu, định hướng trong một số chiến lược, đề án

- Thúc đẩy đô thị hóa theo hướng đô thị thông minh, bền vững, có năng lực chống chịu với biến đổi khí hậu, đảm bảo hiệu quả kinh tế - sinh thái, thuận lợi cho phát triển giao thông công cộng, tăng tính hấp dẫn, cạnh tranh và thân thiện môi trường, tiết kiệm thời gian đi lại; ưu tiên phát triển hệ thống vận tải công cộng đô thị với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế trong đầu tư phương tiện, khai thác vận tải hành khách công cộng (Quyết định 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050).

- Tạo lập và phát triển đô thị tăng trưởng xanh ở Việt Nam nhằm thúc đẩy chuyển dịch mô hình tăng trưởng kinh tế đô thị theo hướng tăng trưởng xanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, đảm bảo phát triển kinh tế khu vực đô thị nhanh, hiệu quả, bền vững, góp phần tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, nâng cao năng lực chống chịu ứng phó biến đổi khí hậu của hệ thống các đô thị, đóng góp cho cam kết quốc gia về giảm phát thải khí nhà kính (Quyết định số 84/QĐ-TTg ngày 19/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch phát triển đô thị tăng trưởng xanh Việt Nam đến năm 2030).

3.3. Một số giải pháp thúc đẩy phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị 

a) Về cơ chế, chính sách

Hoàn thành Quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 294/QĐ-TTg ngày 24/02/2020. Rà soát các định hướng, chiến lược phát triển kết cấu hạ tầng, xác định các chỉ tiêu phù hợp với thực trạng và tiềm năng phát triển của từng lĩnh vực.

Hoàn thiện quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức, đơn giá liên quan đến lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống hạ tầng xanh. 

Ban hành cơ chế, chính sách định hướng, khuyến khích đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật trong đô thị theo hướng tạo khung pháp lý minh bạch, thông thoáng, cải cách thủ tục hành chính theo hướng tạo điều kiện, tháo gỡ các khó khăn, rào cản, tạo động lực khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển, quản lý khai thác.

b) Về nguồn lực thực hiện 

Tập trung ngân sách đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị. Lấy ngân sách là hạt nhân, tạo sức hút các nguồn vốn ngoài ngân sách tham gia đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị. Mở rộng phương pháp tiếp cận, hoàn thiện các cơ chế thu hút tối đa các nguồn lực. Quản lý chặt chẽ, ngăn chặn thất thoát, lãng phí, phát huy cao nhất hiệu quả của các nguồn lực trong và ngoài ngân sách. 

Nâng cao chất lượng cán bộ quản lý kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị từ trung ương đến địa phương, từ hoạch định chính sách đến tổ chức triển khai thực hiện. Coi trọng việc sử dụng cán bộ quản lý phù hợp với chuyên ngành đào tạo. Lấy chất lượng làm tôn chỉ cho công tác đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ quản lý.

Sử dụng nguồn lực tạo ra từ quá trình phát triển đô thị để quay lại đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, tạo nền tảng cho quá trình phát triển bền vững của đô thị.

tm-img-alt
Đề xuất cải tạo sông Tô Lịch thành hệ thống cảnh quan đi bộ kết hợp chức năng thoát nước đô thị (Tư vấn JVE – 9.2020)

c) Ứng dụng khoa học công nghệ

Nâng cao năng lực tiếp cận và khai thác thành quả cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Áp dụng công nghệ số và mô hình quản lý thông minh trong quản lý, vận hành, khai thác hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị. 

Định hướng cụ thể từng ngành và lĩnh vực về công nghệ và sử dụng công nghệ, ban hành tiêu chí lựa chọn thiết bị, công nghệ phù hợp. Thúc đẩy nghiên cứu, áp dụng các công nghệ xử lý nước thải, xử lý chất thải rắn thân thiện với môi trường, phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

Tiếp tục nâng cao ứng dụng khoa học - công nghệ ở tất cả các khâu từ công tác quy hoạch, khảo sát, thiết kế, thi công xây dựng, quản lý khai thác, nghiên cứu sản xuất vật liệu mới, giảm giá thành xây dựng; điều chỉnh các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp với điều kiện, công nghệ thi công mới.

d) Tập trung đầu tư phát triển đô thị và hệ thống hạ tầng kỹ thuật

Đầu tư phát triển hệ thống đô thị theo các chương trình mục tiêu, nâng cao hiệu quả kết nối đô thị - nông thôn, đặc biệt đối với các đô thị lớn, đô thị động lực và các đô thị chịu tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng.

Đầu tư hạ tầng kỹ thuật giao thông xanh, xử lý rác thải, nước thải đô thị. Xây dựng kế hoạch và đầu tư xây dựng không gian công cộng đô thị, xanh hóa cảnh quan đô thị.

Xây dựng kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ công trình xanh vào quá trình quy hoạch, thiết kế, thi công công trình

đ) Bộ máy và tổ chức thực hiện

Các cơ quan Trung ương tập trung hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn theo hướng tăng cường hiệu lực, hiệu quả và hiện đại. Địa phương các cấp cần quyết liệt tổ chức, triển khai thực hiện các định hướng, chiến lược, chương trình đã đặt ra.

Cơ cấu lại tổ chức, bộ máy, tinh giản biên chế theo hướng hiệu quả, tinh gọn và giảm thiểu các bước quản lý trung gian. Tăng cường phân quyền, phân cấp trong đầu tư phát triển và quản lý hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị đồng thời với nâng cao vai trò quản lý nhà nước tại những khâu trong quy trình thủ tục tránh phá vỡ quy hoạch, tiết kiệm, tránh lãng phí...

Kiện toàn và nâng cao năng lực của các cơ quan, đơn vị trong quyết định đầu tư, tổ chức quản lý và thực hiện các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đô thị; Tăng cường hợp tác trong và ngoài nước về phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ từ các tổ chức tư vấn quốc tế có năng lực, kinh nghiệm.

Cục Hạ tầng kỹ thuật - Bộ Xây dựng

Bạn đang đọc bài viết Thực trạng và định hướng phát triển hạ tầng đô thị xanh tại Việt Nam. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0912 345 014 Hoặc email: [email protected]

Cùng chuyên mục

Tin mới

Thiết kế cấp phối bê tông san hô
Thiết kế cấp phối bê tông san hô cấp độ bền B15, B20, B22,5 (sử dụng cốt liệu cát, đá san hô và nước mặn). Kết quả cho thấy, việc sử dụng vật liệu vật liệu, nước biển thay thế cho vật liệu truyền thống là khả thi.
Giữ lửa Chèo truyền thống trong lớp trẻ
Với mục tiêu tôn vinh, quảng bá giá trị đặc sắc của nghệ thuật Chèo Việt Nam, nhiều năm qua, trường Đại học Sân khấu điện tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng những tài năng trẻ có đam mê với loại hình văn hóa dân gian truyền thống của dân tộc này.
Khai trương phố đi bộ, ẩm thực Bãi Cháy
Tuyến phố đi bộ, ẩm thực Bãi Cháy dài hơn 1km với hơn 100 ki ốt đa dạng chủng loại ngành hàng từ nhà hàng ẩm thực, đồ lưu niệm, đồ uống, ẩm thực đường phố... được trang trí bắt mắt nằm ngay trung tâm khu du lịch Bãi Cháy.